Soạn Đặc điểm loại hình của Tiếng việt Trang 56-58 Ngữ văn 11 Tập 2
(Soạn Đặc điểm loại hình của Tiếng Việt)
I. LOẠI HÌNH NGÔN NGỮ
– Khái niệm loại hình là một tập hợp những sự vật, hiện tượng cùng có chung những đặc trưng cơ bản nào đó, ví dụ như: loại hình nghệ thuật, loại hình báo chí, loại hình ngôn ngữ…
– Có hai loại hình ngôn ngữ quen thuộc với chúng ta là:
+ Loại hình ngôn ngữ đơn lập (tiếng Việt, tiếng Thái, tiếng Hán, …)
+ Loại hình ngôn ngữ hòa kết (tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Anh, …)
II. ĐẶC ĐIỂM LOẠI HÌNH CỦA TIẾNG VIỆT
(Soạn Đặc điểm loại hình của Tiếng Việt)
Đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ đơn lập là:
+ Tiếng là đơn vị cơ sở của ngôn ngữ. Tiếng trong Tiếng Việt trùng với âm tiết và có thể là từ (hoặc yếu tố để tạo từ). Âm tiết có kết cấu chặt chẽ, có ranh giới rõ ràng, ở dạng đầy đủ gồm có: phụ âm đầu, vần và thanh điệu.
+ Từ không biến đổi hình thái.
+ Trong các ngôn ngữ thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, biện pháp chủ yếu để biểu thị ý nghĩa ngữ pháp là sắp đặt từ theo thứ tự trước sau và sử dụng các hư từ, nghĩa là khi ta thay đổi trật tự sắp xếp của từ (và thay đổi các hư từ được dùng) thì nghĩa của từ, của câu sẽ đổi khác (hoặc trở thành vô nghĩa).
LUYỆN TẬP
(Soạn Đặc điểm loại hình của Tiếng Việt)
Câu 1: Hãy phân tích những ngữ liệu dưới đây về mặt từ ngữ (chú ý những từ ngữ in đậm) để chứng minh tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập.
– Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống thềm nhà hái nụ tầm xuân (1)
Nụ tầm xuân (2) nở ra xanh biếc
Em lấy chồng rồi anh tiếc lắm thay
(Ca dao)
– Thuyền ơi có nhớ bến (1) chăng,
Bến (2) thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
(Ca dao)
– Yêu trẻ (1), trẻ (2) đến nhà; kính già (1), già (2) để tuổi cho.
(Tục ngữ)
– Con đem con cá bống (1) ấy về thả xuống giếng mà nuôi. Mỗi bữa, đáng ăn ba bát thì con ăn hai, còn một đem thả xuống cho bống (2)…
Nói xong Bụt biến mất. Tấm theo lười Bụt, thả bống xuống giếng. Rồi từ ngày hôm ấy trở đi, cứ sau bữa ăn, Tấm đều để dành cơm, giấu đưa ra cho bống (3). Mỗi lần nghe lời Tấm gọi, bống (4) lại ngoi lên mặt nước đớp những hạt cơm của Tấm ném xuống. Người và cá ngày một quen nhau, và bống (5) ngày một lớn lên trông thấy.
(Tấm Cám)
Trả lời:
+ Trong ngữ liệu a:
- Nụ tầm xuân (1) là thành phần phụ (bổ ngữ), chỉ đối tượng của động từ hái. Nụ tầm xuân (2) là chủ ngữ,chủ thể của hoạt động nở.
- Xét về mặt ngữ âm và sự thể hiện bằng chữ viết, hoàn toàn không có sự thay đổi, khác biệt nàogiữa nụ tầm xuân – chủ ngữ và nụ tầm xuân – thành phần phụ, chỉ khác nhau về vị trí trong câu.
+ Trong ngữ liệu b:
- Bến (1) là phần phụ bổ ngữcho động từ nhớ
- Bến (2) là thành phần chủ ngữcủa động từ đợi
- Xét về mặt ngữ âm và chữ viết không có dự thay đổi nào, chỉ khác nhau về vị trí trong câu.
+ Trong ngữ liệu c: “Yêu trẻ (1), trẻ (2) đến nhà; kính già (1), già (2) để tuổi cho.”
- Trẻ (1) là bổ ngữ(nằm trong phần khởi ngữ). Trẻ (2) là chủ ngữ.
- Già (1) là bổ ngữ(nằm trong phần khởi ngữ). Già (2) là chủ ngữ.
- Xét về mặt âm và sự thể hiện bằng những chữ viết hoàn toàn không có sự thay đổi khác biệt nào giữa trẻ (1) và trẻ (2); già (1) và già (2).
+ Trong ngữ liệu d:
- Bống (1): làbổ ngữ chỉ đối tượng cho động từ đem.
- Bống (2): là bổ ngữchỉ đối tượng cho động từ thả.
- Bống (3): làbổ ngữ chỉ đối tượng cho động từ thả.
- Bống (4): là bổ ngữcho động từ giấu đưa ra.
- Bống (5): chủ ngữcủa câu (chủ thể của hành động ngoi lên).
- Bống (6):chủ ngữ của câu (chủ thể của quá trình ngày một lớn lên trông thấy).
Như vậy, xét về mặt hình thái, các từ in đậm trong các ngữ liệu trên không thay đổi, dù vị trí của nó có biến đổi; xét về mặt ý nghĩa ngữ pháp của các từ được biểu thị bằng trật tự từ và hư từ
Câu 2(Soạn Đặc điểm loại hình của Tiếng Việt): Tìm một câu trong tiếng Anh (hoặc tiếng Pháp, tiếng Nga…) đã học, đối chiếu với câu tự dịch ra tiếng Việt, so sánh, phân tích để đi đến kết luận: tiếng Anh (hoặc tiếng Pháp, tiếng Nga…) thuộc loại hình ngôn ngữ hòa kết, tiếng Việt thuộc lại hình ngôn ngữ đơn lập
Trả lời:
+ Ví dụ tiếng Anh – tiếng Việt
- I give him a pen, He gives me a book
- Tạm dịch: Tôi (1) đưa cho anh ấy (1) cái bút, anh ấy (2) đưa cho tôi (2) quyển sách
+ So sánh, phân tích:
- Tiếng Anh: I, me là đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất có nghĩa là tôi, I là chủ ngữ, me là tân ngữ. Xét về mặt ngữ âm và sự thể hiện bằng chữ viết, chúng hoàn toàn khác biệt. Tương tự như vậy với he, him là đại từ nhân xưng ngôi thứ ba có nghĩa là anh ấy, he là chủ ngữ, him là tân ngữ.
- Tiếng Việt: tôi (1) là chủ ngữ. Tôi (2) là phụ ngữ chỉ đối tượng của động từ “cho”. Xét về mặt ngữ âm và sự thể hiện bằng chữ viết, chúng hoàn toàn không có sự khác biệt nào. So sánh anh ấy (1) với anh ấy (2) chúng ta cũng thấy như vậy. Các cặp từ ngữ ấy chỉ khác nhau về vị trí so với động từ “cho” (là vị ngữ của câu)
Như vậy, tiếng Anh thuộc loại hình ngôn ngữ hòa kết, tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập.
Câu 3(Soạn Đặc điểm loại hình của Tiếng Việt): Xác định các hư từ và phân tích tác dụng thể hiện ý nghĩa của chúng trong đoạn văn sau:
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa.
(Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn độc lập)
Trả lời:
+ Các hư từ trong đoạn văn: đã, lại, mà, nên.
+ Tác dụng của các hư từ: liên kết trong văn bản và nhấn mạnh sức mạnh, chiến thắng của nhân dân ta trước thực dân Pháp và phát xít Nhật, chế độ phong kiến, bộc lộ niềm vui tự hào về nhân dân mình.