Soạn Một thời đại trong thi ca Trang 100-104 Ngữ văn 11 Tập 2

HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

(Soạn Một thời đại trong thi ca)

Câu 1: Theo tác giả, cái khó trong việc tìm ra tinh thần của thơ mới là gì? Và tác giả đã nêu ra cách nhận diện như thế nào?

Trả lời:

+ Trong bài viết, theo tác giả, cái khó trong việc tìm ra tinh thần thơ mới là:

–  Thơ thời nào cũng có cái hay, cái dở; cái kiệt xuất, cái tầm thường, lố lăng. Bởi thế mà “Giá trong thư cũ chỉ có những trần ngôn sáo ngữ, những bài thơ chúc tụng, những bài thơ vịnh hết cái này đến cái nọ, mà các nhà thơ mới lại chỉ làm những bài kiệt tác thì cũng tiện cho ta biết mấy”. Theo tác giả, chính sự xáo trộn ấy đã khiến cho việc chọn được bài để so sánh, để cho thật hiểu cái “tinh thần của thơ mới” là không phải dễ.

– Nguyên nhân thứ hai khiến cho việc tìm hiểu cái “tinh thần thơ mới” khó là không phải ranh giới thơ mới – thơ cũ rạch ròi, dễ nhận ra. Vì “Âu là ta đành phải nhộn rằng trời đất không phủi dựng lên cùng một lần với thế hệ chúng ta. Hôm nay đã phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ. Các thời đại vẫn liên tiếp cùng nhau…”.

+ Từ những khó khăn nêu trên, tác giả đã nêu ra những cách nhận diện sau:

– Lấy bài hay so với bài hay để thấy được đặc điểm, tư tưởng của thời đại

– Nhìn vào đại thể: nghiên cứu trên diện rộng, số lượng nhiều để thấy được sự khái quát

– “Khốn nỗi, cái tầm thường, cái lố lăng chẳng phải của riêng một thời nào và muốn hiểu tinh thần thơ cho đúng đắn, phải sánh bài hay với bài hay vậy.”

“… muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể”

Câu 2: Điều cốt lõi mà thơ mới đưa đến cho thi đàn Việt Nam bấy giờ là gì?

Trả lời:

+ Điều cốt lõi mà thơ mới đưa đến cho thi đàn Việt Nam bấy giờ là “cái tôi” đối lập với “cái ta” của thơ cũ – “cái tôi” với cả mặt tích cực và mặt bi kịch của nó với một quan niệm trước đó chưa từng có: quan niệm cá nhân (sự tự ý thức về bản thân, khát vọng được thành thực).

– Đồng thời cũng cho ta thấy được sự vận động của “chữ tôi” và cũng nói lên bi kịch trong hồn người thanh niên lúc bấy giờ.

– Cái tôi là bản ngã của mỗi con người mà bất kì ai là con người cũng đều có cả. Nhưng trong những thời kì lịch sử nhất định, do hệ tư tưởng chính thống của thời đại ngự trị, không chế, ép buộc nên “cái tôi” (bản ngã) vừa nói không thể bộc lộ mà phải chịu tiềm tàng, giấu kín, triệt tiêu. Do đó, các nhà thơ lúc bấy giờ phải nói lên tiếng nói của “cái ta – đạo lí” chung của thời đại đó. Thơ đó còn gọi là thơ phi ngã…

– Ở Việt Nam chỉ đến những năm 30 của thế kỉ XX, khi Thơ mới xuất hiện, “cái tôi” ấy được giải phóng, nhà thơ mới có thể nói lên những điều thành thực tự đáy lòng mình. “Cái tôi” đó chính là “khát vọng được thành thực” như Hoài Thanh đã nói, là sự tự khẳng định mình, khẳng định bản ngã của mình trước cuộc đời, là sự tự ý thức về cá nhân mình trong cuộc sống xã hội. “Cái tôi” bị xã hội phong kiến kiềm chế lâu nay đến khi đó đã bùng nổ mãnh liệt. “Cái sức mạnh súc tích từ mấy nghìn năm nhất đán tung bờ vỡ đê” và đã làm giàu cho thi ca bằng những cảm xúc mới mẻ và những cách tân nghệ thuật.

Câu 3: Vì sao tác giả nói “chữ tôi, với cái nghĩa tuyệt đối của nó “lại” “đáng thương” và… “tội nghiệp”?

Trả lời:

Chữ “tôi”, với cái nghĩa tuyệt đối của nó lại đáng thương và … tội nghiệp vì:

– Thơ mới đào sâu vào cái tôi cá nhân nhưng tuyệt vọng, buồn thảm và cô đơn. “Cái tôi” đã đem đến cho tâm hồn họ nỗi buồn, bơ vơ, muốn thoát nhưng không được. Họ là những thi nhân đang sống trong cuộc đời mong mỏi, tù túng của thân phận mất nước, mang trong mình “cái tôi” cô đơn, bé nhỏ nên họ thật đáng thương. Là sự tương phản giữa khát vọng thoát thân và thực tế tù túng, bế tắc để thấy bi kịch của thi sĩ lãng mạn.

– Cái tôi không có được cốt cách ngang tàng, tự trọng thuở trước mà thể hiện tấn bi kịch đang diễn ra trong tâm lí thế hệ trẻ đương thời, đó là họ thiếu một lòng tin đầy đủ giữa bối cảnh tăm tối của nước nhà.

Câu 4: Các nhà thơ lãng mạn cũng như “người thanh niên” bấy giờ đã giải tỏa bi kịch của đời mình bằng cách nào?

Trả lời:

+ Các nhà thơ lãng mạn cũng như “người thanh niên” bấy giờ đã giải tỏa bi kịch của đời mình bằng cách: cách “họ gửi cả vào tiếng Việt” vào tình yêu quê hương, vào tinh thần nòi giống.

– Lòng yêu nước của họ biểu hiện ở sự thiết tha với những giá trị văn hóa của cha ông, và nhất là ở nỗ lực sáng tạo ra những giá trị văn hóa mới. Tình yêu của họ thể hiện tập trung nhất ở lòng yêu tiếng Việt và nền thơ ca Việt, ở niềm say mê sáng tạo ra những giá trị văn hóa, tinh thần trước hết là sáng tạo thơ ca: Tiếng Việt – họ nghĩ – là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua. Đến lượt họ, họ cũng mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng. Và như thế, trong thất vọng sẽ nảy mầm hi vọng.

– Có thể nói các nhà thơ mới đã tìm ra một chỗ dựa tin cậy của tiếng Việt, của tinh thần nòi giống, các thế loại thơ ca xưa. Họ muốn vịn vào đó như vịn vào những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai.

– Đó là cách mà những con người ấy thể hiện tình yêu nước một cách thầm kín trước một thời đại xã hội rối ren, hiện thực thì tăm tối, phũ phàng, vùi dập cuộc sống và khát vọng của con người.

Câu 5: Một thời đại trong thi ca là một tiểu luận phức tạp, phong phú nhưng vì sao người đọc vẫn thấy dễ hiểu và hấp dẫn? (Chú ý cách đặt vấn đề, dẫn dắt vấn đề, lời văn giàu hình ảnh và chất thơ…)

Trả lời:

+ Một thời đại trong thơ ca là một tiểu luận phức tạp, phong phú nhưng người đọc vẫn thấy dễ hiểu và hấp dẫn vì tác giả đã có một cách viết nghị luận văn chương rất đỗi tài hoa tinh tế và lôi cuốn. Nghệ thuật viết ấy tập trung vào các điểm sau:

– Quan điểm tiến bộ, hệ thống lập luận chặt chẽ, rõ ràng, hợp lý thuyết phục, mạch lạc, hấp dẫn: từ khái quát đến cụ thể, từ xưa đến nay, từ xa đến gần. Lập luận luôn gắn với những nhận định hấp dẫn, có sự so sánh giữa thơ mới và thơ cũ một cách biện chứng.

– Kết hợp nhuần nhuyễn giữa mạch luận lí sắc sảo và cảm xúc, tình cảm chân thành.

– Cách dẫn dắt tinh tế, uyển chuyển; diễn đạt giàu hình ảnh, ngôn ngữ cô đọng.

– Dẫn chứng tiêu biểu chọn lọc xác đáng và tinh tế

– Cách thể hiện giàu hình ảnh sinh động, dùng so sánh hay gợi cho người đọc nhiều liên tưởng (“còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả”, “Tiếng Việt, họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua…”).

– Sử dụng từ ngữ chính xác, tinh tế, giàu cảm xúc: “Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu”. “Cả trời thực, trời mộng nao nao theo hồn ta. Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế” … Cách dẫn dắt mạch văn rất tự nhiên linh hoạt và độc đáo là không dùng lí mà dùng tình đế dẫn dắt ý.

– Nhưng quan trọng hơn cả, bao trùm hơn cả ở đây là cách luận giải sắc sảo, cách diễn đạt tài hoa, hóm hỉnh đầy sức thuyết phục của Hoài Thanh, tác giả bài tiểu luận.

LUYỆN TẬP

(Soạn Một thời đại trong thi ca)

Câu 1(Soạn Một thời đại trong thi ca): Theo quan niệm của Hoài Thanh, chữ tôi và ta trong thơ mới và thơ cũ có gì khác nhau?

Trả lời:

Theo quan niệm của Hoài Thanh, cái ta và cái tôi trong thơ cũ và thơ mới có sự khác nhau:

Có thể thấy sự khác biệt cơ bản giữa “cái tôi” thơ mới và “cái ta” thơ cũ là ở chỗ thơ văn xưa thường nói lên những suy tư, những cảm xúc chung của cả lớp người, loại người, kiểu người. “Cái tôi” nếu có cũng nấp dưới bóng “cái ta” chung ấy. Đến “cái tôi” trong thơ mới, nó đã đứng một mình. Nó đã tự bộc bạch những gì sâu kín nhất ngay bên trong bản thể của nó.

+ Cái tôi thơ cũ:

– Từ xưa, xã hội Việt Nam ta không có cá nhân mà chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình.

– Cái bản sắc cá nhân chìm đắm trong đoàn thể (gia đình, quốc gia) như giọt nước trong biển cả.

– Các văn nhân thi sĩ không một lần nào dùng chữ tôi để nói với mình hay với mọi người. Họ không tự xưng, ẩn mình sau chữ ta là chữ có thể chỉ chung cho nhiều người.

+ Cái tôi của thơ mới:

– Xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thực bỡ ngỡ như lạc loài nơi đất khách.

– Mang theo quan niệm cá nhân (sự tự ý thức về bản thân mình chứ không phải chủ nghĩa cá nhân) một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này.

– Chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó, làm nhiều người khó chịu, nhưng ngày càng mất dần cái vẻ bỡ ngỡ và được vô số người quen. Cái tôi của các nhà thơ mới thật đáng thương và tội nghiệp vì nó đem lại cho tâm hồn họ nỗi buồn lạnh bơ vơ muốn thoát đi đâu cũng không được.

Câu 2(Soạn Một thời đại trong thi ca): Lòng yêu nước của các nhà thơ mới đã được biểu lộ như thế nào?

Trả lời:

+ Lòng yêu nước của các nhà thơ mới được thể hiện ở:

– Lòng yêu nước của con người có những biểu hiện đa dạng phong phú. Có lòng yêu nước gắn liền với đấu tranh bảo vệ Tổ quốc chống ngoại xâm. Có lòng yêu nước gắn liền với lao động sản xuất xây dựng đất nước giàu mạnh. Lại cũng có lòng yêu nước biểu hiện ở tha thiết mến yêu gìn giữ phát huy những giá trị văn hóa, ở ra sức sáng tạo ra những giá trị văn hóa mới.

– Lòng yêu nước của các nhà thơ mới gần với dạng thứ ba trên đây: “… họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt, họ nghĩ là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua. Vì tiếng Việt là tiền đề của tâm hồn và bề dày lịch sử văn hóa dân tộc

– Đến lượt họ, họ cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng”. Nói một cách khác, họ yêu tiếng Việt, yêu nền thơ ca Việt trân trọng tinh thần giống nòi, tâm trạng những vẻ đẹp của quá khứ dân tộc. Họ muốn làm cho tiếng mẹ đẻ, tiếng nói của giống nòi ngày một giàu đẹp hơn, ngày càng trường tồn bất diệt.

Câu 3(Soạn Một thời đại trong thi ca): Qua bài tiểu luận, anh (chị) hiểu gì thêm về tâm hồn các nhà thơ lãng mạn và thế hệ thanh niên đương thời?

Trả lời:

Qua bài tiểu luận Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh, chúng ta có thêm hiểu biết về tâm hồn các nhà thơ lãng mạn và thế hệ thanh niên đương thời. Họ là những con người nhanh nhạy khi tiếp thu cái mới và tạo ra một “cái tôi” hoàn toàn khác với “cái ta” trong thơ xưa. “Cái tôi” mang theo quan niệm của cá nhân con người, đề cao con người với những khát vọng rất đỗi đời thường, nhân văn.

Đó là khao khát được cách tân, được tìm tòi và sáng tạo của những nhà thơ chân chính cũng như thế hệ thanh niên đương thời. Không chỉ vậy, họ còn là những con người yêu nước, dù không được bộc lộ một cách trực tiếp mà chỉ là gián tiếp qua các họ nâng niu, trân trọng tiếng Việt; qua cách họ tìm về với những giá trị cốt lõi, trường tồn trong văn hóa bản sắc, truyền thống của người Việt. Tất cả những điều ấy khiến chúng ta hiểu được rằng, dù thời đại của “cái ta” đã lắng xuống, thời đại của “cái tôi” đang lên ngôi, song dù thế nào, những nhà thơ, những người thanh niên ấy vẫn giữ trọn trong trái tim mình một dải đất chữ S hàng nghìn năm văn hiến.