Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm
Trước khi phân tích người lính tây tiến ta cần hiểu về hoàn cảnh sáng tác tác phẩm này. Bài thơ “Tây Tiến” được Quang Dũng viết vào năm 1948, khi ông là đội trưởng đoàn quân Tây Tiến, tham gia Đại hộ toàn quân tại Phù Lưu Chanh, một ngôi làng nhỏ ven bờ sông Đáy. Tại đây ông nhớ về những kỷ niệm trong khoảng thời gian chiến đấu gian khổ, thiếu thốn mà hào hùng của những người lính trung đoàn Tây Tiến.
Về Quang Dũng, ông sinh năm 1921, quê huyện Đan Phượng, Hà Nội. Quang Dũng có tên thật là Bùi Đình Diệm. Không chỉ là một nhà thơ, ông còn là nhà viết kịch, một họa sĩ, nhạc sĩ.
Thân bài
Phân tích người lính tây tiến chi tiết
Điểm đặc sắc của bài thơ Tây Tiến là Quang Dũng miêu tả những hình ảnh thực tế của những người lính bằng bút pháp lãng mạn. Qua đó thể hiện cái phi thường, cái tài hoa, vẻ đẹp độc đáo của những chiến sĩ của một thời lịch sử hào hùng. Mạch thơ là mạch cảm xúc nhớ thương. Nỗi nhớ mở đầu bằng một địa địa danh nổi tiếng:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Phân tích người lính tây tiến ta thấy Sông Mã là địa danh đầu tiên được Quang Dũng nhắc đến, bởi trong những bước đường chiến đấu, những người lính Tây Tiến luôn có sông Mã song hành. “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi” là một tiếng gọi tha thiết mà ám ảnh. Giờ đây đã xa xôi nhưng nỗi nhớ vẫn luôn hiện diện. Trong câu thơ thứ hai, từ “nhớ” xuất hiện hai lần và nhịp 4/3 thể hiện nỗi nhớ thổn thức, có mong ngóng có hụt hẫng, vì nhớ nhưng đã xa mất rồi. Từ láy “chơi vơi” lại cho ta thấy một nỗi nhớ mênh mang, bao trùm khắp không gian, khiến người đọc cảm nhận được chút gì nao nao, chống chếnh. Vần “ơi” được reo ở hai câu thơ đầu đã tạo cho cảm giác như nhẹ bẫng, là vẻ lâng lâng của cảm xúc nhớ thơ. Nỗi nhớ Tây Tiến một thời vì thế tưởng như dịu dàng nhưng lại tha thiết ám ảnh. Ngay hai câu thơ tiếp theo, Quang Dũng nói về nỗi nhớ cụ thể hơn:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Khi phân tích người lính tây tiến ở hai câu thơ trên, ta thấy rõ chất hiện thực được Quang Dũng viết nên bằng bút pháp lãng mạn. “Đoàn quân mỏi” là hiện thực, nhưng không gian lại mơ hồ phiêu lãng với “sương lấp”, “hoa về”. Vì vậy có thể nói, trong cảm xúc nhớ thương, Tây Tiến hiện lên thơ mộng, huyền ảo, đầy vẻ lãng mạn của núi rừng. Các chiến sĩ trên bước đường chiến đấu, đã đi giữa rừng núi thơ mộng, hùng vĩ. Và trong nỗi nhớ của nhà thơ, kỷ niệm về một thời gian khổ như đang diễn ra ngay trước mắt:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Hai câu thơ có sức gợi hình đã diễn tả thật cụ thể, sống động về những khó khăn, gian khổ của người lính trên đường hành quân. Nhịp 4/3 của câu thơ và các vần thanh trắc giúp người đọc cảm nhận rõ cái gập ghềnh, trúc trắc nguy hiểm trên đường ra trận. Phân tích người lính tây tiến ta thấy, cái hay và độc đáo của hai câu thơ này nằm ở từ láy “khúc khuỷu” và “thăm thẳm”. Chỉ hai từ nhưng đã gợi ra một không gian chiều, vừa cao, rộng; vừa sâu, xa. Đọc hai câu thơ, người đọc cảm nhận rõ những vất vả, gian khó mà người lính phải trải qua.
Điều đặc sắc tiếp theo là ở từ “heo hút”. Nếu nhà thơ dùng từ “hun hút” thì chỉ diễn tả được độ sâu, nhưng “heo hút” còn gợi được cả vẻ hoang vắng, âm u, lạnh lẽo của núi rừng. Các từ láy được sử dụng đã tái hiện chân thực địa hình chiến đấu gian khổ, nguy hiểm mà người lính năm xưa phải trải qua. Phân tích người lính tây tiến đến đây, ta không khỏi nhớ đến hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong thơ Chính Hữu. Trong bài thơ ấy, những người lính cũng ở giữa rừng núi hoang vu chờ giặc tới mà chân không giày, quần vá, áo rách vai. Nhưng những người chiến sĩ ấy vẫn hiên ngang ôm súng, ngạo nghễ, sẵn sàng chiến đấu với quân thù.
Trở lại với những vần thơ về những người lính Tây Tiến của Quang Dũng, cái gian khổ năm xưa được ông nhớ lại:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Lại thêm những minh chứng sống động, hiện thực hơn về những hiểm nguy, gian khó của người lính Tây Tiến. Đó là những “chiều chiều”, những “đêm” nghe tiếng thác dữ dội, tiếng “cọp trêu người”. “Đêm đêm”, “chiều chiều” thể hiện một nỗi ám ảnh đã in sâu vào tiềm thức của nhà thơ. Và thêm những hiện thực gian khổ khác:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Phân tích người lính tây tiến ta thấy, hai chữ “dãi dầu” là sự thể hiện rõ ràng nhất về những nhọc nhằn, mệt mỏi nhưng vẫn lột tả được vẻ gì phong trần, chân chất của người lính trên đường ra trận. Hình ảnh “bỏ quên đời” mang đến nhiều suy nghĩ cho người đọc. Một mặt ta thấy nó thể hiện khí phách ngang tàng, bản lĩnh của người lính trước mọi khốc liệt của chiến tranh, nhưng một mặt dường như đang chỉ sự hy sinh của người lính. Nhưng dẫu theo cách cắt nghĩa nào, hình ảnh những những người lính anh dũng đều khiến chúng ta biết ơn và cảm phục trước tinh thần chiến đấu, vượt qua khó khăn của họ.
Trong những câu thơ tiếp theo, dòng cảm xúc hồi tưởng của Quang Dũng mang người đọc đến với hình ảnh những người lính lãng mạn, mê say trong những giờ phút nghỉ ngơi sau những trận đánh anh dũng:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Những lúc được dừng lại, được nghỉ ngơi, những người lính Tây Tiến bỏ lại sau lưng những mệt mỏi, lo lắng của cuộc chiến đâu và hòa mình vào cuộc sống đời thường, thật bình dị, thật gần gũi. Một buổi liên hoan ở doanh trại như một đêm hội đuốc hoa lung linh, lãng mạn. Phân tích người lính tây tiến ta cảm nhận được niềm vui, niềm say mê của người lính trong đêm hội rực rỡ ánh sáng và màu sắc ấy. Đoạn thơ như họa lên một khung cảnh thật rộn ràng, vui tươi. Chữ “bừng” là ngọn đuốc được đốt sáng, nhưng cũng là bừng lên niềm vui.
Ở đoạn thơ trên, ta còn thấy cảm xúc ngạc nhiên rồi ngây ngất của người lính khi nhìn thấy hình ảnh người em gái đã “xiêm áo tự bao giờ”. “Tự bao giờ” không chỉ thể hiện vẻ ngạc nhiên, ngỡ ngàng mà còn thể hiện cảm xúc ngây ngất. Hình ảnh người em gái là cái dịu dàng bất ngờ giữa hiện thực khốc liệt của cuộc chiến. Và thêm vào bức tranh đêm hội của ánh sáng, của niềm vui là tiếng khèn, tiếng nhạc, là tiếng lòng mê say.
Khi phân tích người lính tây tiến ta còn thấy cái thời lãng mạn, mê say của những người lính Tây Tiến được thể hiện qua hai câu thơ tỏa ra mùi thơm:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Trên bước đường hành quân về phía xa, mùi “cơm lên khói” và mùi thơm của nếp xôi thật quyến luyến lòng người. Hai câu thơ được gieo thanh bành, nên ta cảm nhận rõ thứ cảm xúc lâng lâng, bâng khuâng và cả chút chới với nhớ nhung, một chút da diết khắc khoải của Quang Dũng khi nhớ về Tây Tiến một thời. Những câu thơ tiếp theo lại cho thấy sự tài hoa vượt bậc của nhà thơ trong ngôn từ:
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Câu thơ thứ nhất với nhịp 4/3 và dấu phẩy bẻ câu làm đôi khiến người đọc cảm nhận rõ cái hiểm trở, trập trùng của núi rừng. Ở câu thơ thứ hai lại như một tiếng buông lợi, gợi cảm giác nhẹ nhàng nhưng chơi vơi. Chơi vơi bởi là niềm hoài niệm về một thời xa vắng, có vẻ mơ hồ, có vẻ vu vơ nhưng lại rất khắc khoải và ám ảnh.
Phân tích người lính tây tiến ta thấy rõ, những người lính Tây Tiến ấy cũng là những người nghệ sĩ. Bởi trong tận cùng gian khổ, trong nỗi đau mất mát, tâm hồn họ vẫn mang những nét đẹp lung linh, dịu dàng. Giữa cuộc chiến đấu khốc liệt, gian lao, nhờ cuộc sống với tâm hồn đầy thơ mộng đã giúp họ luôn lạc quan, luôn mạnh mẽ và anh dũng. Những câu thơ tiếp theo có sự chuyển đổi của mạch cảm xúc. Nếu ở trên ta nghe giọng náo nức say mê, thì khổ thơ dưới đây trở nên trầm lắng, có chút bâng khâng hoài niệm lại có chút ngậm ngùi:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Dòng hoài niềm của Quang Dũng bắt đầu với “chiều sương ấy”. Chiều sương còn gợi ra điều gì rõ hơn cảm giác buồn bã mênh mang. Chữ “ấy” nghĩa là một nơi xa xôi, một khoảng cách nhớ thương nghe vời vợi và một khoảng lặng miên man. Những câu thơ trên gợi nhiều hơn tả, nhưng không gợi ra cái gì cụ thể mà chỉ là vẻ mờ ảo, hư thực không rõ ràng. Lau được nhân hóa là “hồn lau”, người thì chỉ là dáng người, nghĩa là mọi thứ không thể nắm bắt giữa không gian hoang vắng u buồn.
Phân tích người lính tây tiến ở đoạn thơ này, ta thấy cái đặc sắc là ở cấu trúc “có thấy”, “có nhớ”. Về mặt chữ thì là câu hỏi, nhưng giọng điệu và ý nghĩa là sự gợi nhắc, là lời nhắn nhủ về một thời đã có như “chiều sương ấy”. Bên cạnh đó, trong đoạn thơ này còn có sự chuyển đổi về giác quan, “có thấy” nhưng không chỉ thấy bằng mắt mà còn là cảm nhận bởi tâm hồn.
Khi đọc bài thơ “Tây Tiến” ta như cũng các chiến sĩ năm xưa đi qua nhiều trạng thái của đời sống chiến đấu. Và ở đoạn thơ tiếp theo, Quang Dũng khắc họa chân dung người lính hiện thực hơn bao giờ hết và lại bằng bút pháp lãng mạn. Điều này làm nổi bật vẻ đẹp độc đáo, sự phi thường tài hoa của những người lính:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Binh đoàn của Quang Dũng được gọi bằng một cái tên nghe thật lạ, thật thú vị, là “đoạn quân không mọc tóc”. Nhưng điều có vẻ lạ lùng ấy lại chính là hiện thực khốc liệt mà những người linh phải trải qua. Như ta đã bắt gặp hình ảnh tiểu đội xe không kính trong thơ của Phạm Tiến Duật, cả hai hình ảnh này đều thể hiện sự thiếu thốn khắc nghiệt lại vừa cho thấy tinh thần lạc quan, dí dỏm của các chiến sĩ.
Ở câu thơ “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” tồn tại hai hình ảnh đối lập nhau: “quân xanh màu lá” và “dữ oai hùm”. “Xanh màu lá” là muốn nói làn da xanh tái vì thiếu thốn của những người lính, nhưng giữa hiện thực tàn khốc ấy, họ vẫn thật oai hùng, vẫn giữ được khí phách hiên ngang của người chiến sĩ cách mạng. Cụm từ “dữ oai hùm” cũng tạo cho câu thơ âm hưởng hùng tráng, tái hiện vẻ đẹp hùng dũng, sự khí thế của đoàn quân. Phân tích người lính tây tiến trong những câu thơ tiếp theo, một hình ảnh khác của người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp lại được Quang Dũng khắc họa chân thực:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
“Mắt trừng” là cái nhìn đau đáu, cái nhìn đăm đăm, khôn nguôi thể hiện nỗi nhớ khắc khoải, nỗi khát khao. Còn đến chữ “mộng” câu thơ nhơ trùng xuống, thể hiện cảm xúc bâng khuâng khó tả. Mơ “dáng kiều thơm” nghe thật bình dị mà cao quý biết bao, gợi cho người đọc vẻ chân thực của người lính. Và nỗi nhớ dáng kiều thơm là điểm tựa tinh thần cho những thanh niên Hà Nội thời kỳ chống Pháp, đã rời ghế nhà trường ra trận.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đì chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Qua đoạn thơ ta thấy, những người lính Tây Tiến chiến đấu anh dũng dù khó khăn thiếu thốn và chết cũng thật anh hùng. Ở đây nhà thơ viết về cái chết nhưng lại không chút bi lụy ai oán, mà mang giọng điệu hùng tráng, anh hùng. Và “anh về đất” không phải anh đã chết mà là anh đã hóa thân mình vào dáng hình xứ sở, đã thực hiện nghĩa vụ vinh quanh với chính mình và với đất nước. Tiếng gầm của Sông Mã là lời tiễn đưa người con anh hùng của dân tộc.
Sau những hồi tưởng về một thời chiến đấu gian khổ nhưng cũng đầy lãng mạn say mê, Quang Dũng thể hiện niềm mong ước được gặp lại Tây Tiến:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
Phân tích người lính tây tiến ta thấy đến đây bài thơ đã trở về mạch cảm xúc nhớ thương. Lời hẹn gặp Tây Tiến như lời hẹn vào ngày chiến thắng, ngày hội mùa xuân vẻ vang. Và lời hẹn cũng nghe như một lời hứa, một lời thề kiêu hãnh về ngày chiến thắng của cuộc chiến bảo vệ dân tộc. Ta cũng nhận ra ở đây, nếu trải khắp bài thơ là nỗi nhớ cụ thể thì đến cuối bài, nỗi nhớ đã hướng về quê hương, về một mảnh đất.
Kết luận khi phân tích người lính tây tiến
Đọc bài thơ của Quang Dũng, ta thấy những người lính được gọi là người lính Tây Tiến – tên một trung đoàn, chứ không có một người lính cụ thể. Bởi vậy nhà phê bình Phong Lan từng đưa ra nhận định: “Tây Tiến là một tượng đài bất tử về người lính vô danh”. Và qua phân tích người lính tây tiến ta thấy, những người lính ấy bất tử bởi vẻ đẹp hào hoa mà hào hùng, bi tráng.