I- Yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận
Để hiểu hơn về các yếu tố trong văn nghị luận, các bạn cần đọc qua văn bản “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của tác giả Hồ Chí Minh.
1. Đọc văn bản và trả lời câu hỏi
Câu a: Hãy tìm những từ ngữ biểu lộ tình cảm mãnh liệt của tác giả và những câu cảm thán trong văn bản trên. Về mặt sử dụng từ ngữ và đặt câu có tính chất biểu cảm, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giống với Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn không?
Gợi ý trả lời:
Những từ ngữ biểu lộ tình cảm mãnh liệt của tác giả trong bài văn trên đó là: muốn hòa bình, phải nhân nhượng, càng lấn tới, quyết tâm cướp nước ta, thà hi sinh, nhất định không, thà hi sinh tất cả, phải hi sinh tới giọt máu cuối cùng, phải gian lao kháng chiến, kiên quyết hi sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta.
Những câu cảm thán:
+ Hỡi đồng bào toàn quốc!
+ Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
+ Chúng ta phải đứng lên!
+ Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hi sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!
+ Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
+ Kháng chiến thắng lợi muôn năm!
– Về mặt sử dụng từ ngữ và đặt câu có tính chất biểu cảm, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh giống với Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn. Cả hai văn bản đều sử dụng nhiều từ ngữ và câu văn giàu tình cảm. Trong Hịch tướng sĩ cũng có những từ như: ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù, trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa… Những câu cảm thán như: Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào!, Cách đối đãi so với Vương Công Kiên, Cốt Đãi Ngột Lang ngày trước cũng chẳng kém gì!, Giả sử các bậc đó cứ khư khư theo thói nữ nhi thường tình, thì cũng chết già ở xó cửa, sao có thể lưu danh cùng sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ được!…
Câu b: Tuy nhiên, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và Hịch tướng sĩ vẫn đuộc coi là những văn bản nghị luận chứ không phải là văn bản biểu cảm. Vì sao?
Gợi ý trả lời:
- Tuy nhiên, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và Hịch tướng sĩ vẫn đuộc coi là những văn bản nghị luận chứ không phải là văn bản biểu cảm. Bởi cả hai văn bản này đều sử dụng lý luận, quan điểm, ý kiến để bàn về một vấn đề, bàn về lẽ phải, trái, sự đúng sai của việc nhất thiết phải đứng lên đấu tranh, chống lại quân giặc, đánh đuổi quân thù. Cả hai văn bản đều không nhằm nhấn mạnh và bộc lộ cảm xúc của tác giả về việc bị áp bức bóc lột mà hướng tới việc tác động tới lý trí của người đọc, người nghe, tới đồng bào, quân sĩ, chiến sĩ, buộc họ phải suy nghĩ, phải lắng nghe, phân tích và thấu hiểu.
Câu c: Hãy theo dõi bảng đối chiếu ở cột 1 và cột 2. Có thể thấy, những câu ở cột 2 hay hơn những câu ở cột 1. Vì sao như thế? Từ đó, hãy cho biết tác dụng của yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận?
Gợi ý trả lời:
- Sở dĩ những câu văn ở cột 2 hay hơn cột 1 vì các câu văn ở đây sử dụng nhiều từ ngữ biểu cảm, bộc lộ rõ tâm tư tình cảm, thái độ của người viết cũng như giọng điệu đầy sắc thái cảm xúc nên khiến toàn bộ câu văn trở nên giàu sức biểu cảm hơn.
- Qua đây, chúng ta có thể thấy tác dụng của yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận đó là giúp thông điệp mà người nói, người viết khi tới người nghe sẽ hiệu quả, đáng tin và thuyết phục hơn. Nó cũng tác động mạnh mẽ hơn vào xúc cảm và tư tưởng của người tiếp nhận.
2. Phương pháp phát huy tác dụng của yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận
Câu a: Thông qua việc tìm hiểu các văn bản như Hịch tướng sĩ và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, em hãy cho biết: Làm thế nào để phát huy hết tác dụng của yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận?
Gợi ý trả lời:
– Thông qua việc tìm hiểu các văn bản như Hịch tướng sĩ và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, để phát huy hết tác dụng của yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận, người làm văn nghị luận phải thật sự có cảm xúc trước những điều mình viết (nói); phải biết diễn tả cảm xúc đó bằng những từ ngữ, những câu văn có sức truyền cảm. Sự diễn tả cảm xúc cần phải chân thực và không được phá vỡ mạch lạc nghị luận của văn bản.
Câu b: Người làm văn chỉ cần suy nghĩ về luận điểm và lập luận hay còn phải thật sự xúc động trước từng điều mình đang nói tới?
Gợi ý trả lời:
-Người làm văn nghị luận, bên cạnh việc suy nghĩ và sử dụng về các luận điểm, lập luận để thuyết phục người nghe, người đọc, thì còn cần phải thực sự xúc động dành tình cảm sâu sắc, trăn trở trước những điều mình muốn nói tới. Cụ thể như Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trần Quốc Tuấn là những vị lãnh đạo luôn đau đáu về sự nghiệp bảo vệ và giải phóng dân tộc. Cả hai tác giả đều có một lòng nồng nàn yêu nước, khát khao mang tới cuộc sống an ấm, bình yên cho tất cả mọi người.
Câu c: Chỉ có rung cảm không thôi đã đủ chưa? Phải chăng chỉ cần có yêu nước và căm thù giặc nồng cháy là có thể dễ dàng tìm ra những cách nói như: “Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả…” hay “uốn lưỡi cú diều…”? Để viết được những câu như thế, người viết cần phải có phẩm chất gì khác nữa?
Gợi ý trả lời:
- Chỉ có rung cảm không thôi chưa đủ, chỉ có lòng yêu nước nồng nàn và căm thù giặc nồng cháy thôi chưa đủ và không thể dễ dàng có những cách nói như trên, mà để viết được như thế, người viết cần phải là một người có phẩm chất lãnh đạo vĩ đại, trái tim và tấm lòng nhân hậu. Đồng thời cũng phải là người nói được làm được, biết mình biết ta, có vốn kiến thức, tầm nhìn xa trông rộng.
Câu 4: Có bạn cho rằng: Càng dùng nhiều từ ngữ biểu cảm, càng đặt nhiều câu cảm thán thì giá trị biểu cảm trong văn nghị luận càng tăng? Ý kiến ấy có đúng không? Vì sao?
Gợi ý trả lời:
- Ý kiến ấy không đúng. Bởi trong văn bản nghị luận, nếu người viết không thực sự dành tình cảm chân thành, sự xúc cảm rung động riêng của bản thân thì sẽ không mang lại hiệu quả thuyết phục như mong đợi. Bởi viết những câu văn hoa mĩ, cảm thán nhiều người có có thể viết được, nhưng tình cảm riêng của mỗi người thì không thể.
II- Luyện tập
Câu 1: Hãy chỉ ra các yêu tố biểu cảm trong phần I- Chiến tranh và “người bản xứ” ( ở văn bản Thuế máu) và cho biết tác giả đã sử dụng những biện pháp gì để biểu cảm. Tác dụng biểu cảm đó là gì?
Gợi ý trả lời:
- Các yêu tố biểu cảm trong phần I- Chiến tranh và “người bản xứ” (ở văn bản Thuế máu) đó là: “Những tên da đen bẩn thỉu”; “những đứa con yêu, những người bạn hiền, những chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do”; “Chiến tranh vui tươi”; “rời xa vợ con, phơi thây trên các bãi chiến trường”; “Cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi”; “xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thủy quái”; “Bỏ xác tại những miền hoang vu, thơ mộng”; “Lấy máu mình tưới lên những vòng nguyệt quế…”; “Khạc ra từng miếng phổi”…
- Tác giả đã sử dụng những biện pháp hình ảnh liên tưởng, so sánh và đối lập để biểu thị sự biểu cảm.
- Tác dụng của những phương pháp biểu cảm này đó là giúp văn bản thể hiện rõ tính chất châm biếm, mỉa mai mà tác giả muốn truyền tải. Đặc biệt, giúp người đọc cảm nhận được rõ bản chất lừa đảo, lọc lừa, thâm độc, quỷ quyệt của bọn thực dân Pháp trong việc sử dụng người dân thuộc địa mà cụ thể là người dân Việt Nam làm bia đỡ đạn cho chúng.
Câu 2: Đọc đoạn nghị luận sau đây và cho biết: Những cảm xúc gì đã được biểu hiện qua đoạn văn? Tác giả đã làm thế nào để những đoạn văn đó không chỉ có sức thuyết phục lí trí mà còn gợi cảm?
Gợi ý trả lời:
- Qua đoạn trích, chúng ta thấy, tác giả đã thể hiện những cảm xúc đó là:
+ Nỗi buồn của người thầy, một nhà giáo tâm huyết với nghề dạy học, trước vấn nạn học vẹt, học lệch, học tủ của học sinh. “Nỗi buồn thứ nhất là thấy cacs bạn có quan niện học “tủ”. Ông thầy dạy giỏi đối với các bạn là ông thầy giảng và sạn sách đúng “tủ”.
+ Nỗi lo lắng, trăn trở, dằn vặt của thầy giáo trước một thực trạng đáng buồn đang diễn ra trong đời sống giáo dục của nước nhà thời kì trước. Cụ thể là: “Sự học mà đã hạ xuống là học “tủ” thì chúng tôi không còn cần làm việc cùng các bạn nữa… việc gì còn phải lôi thôi bày đặt ra chương trình học tập để bắt trẻ em ngày ngày phải đến trường?”.
- Để những đoạn văn đó không chỉ có sức thuyết phục lí trí mà còn gợi cảm, tác giả đã sử dụng giọng văn chứa đầy tâm sự, tình cảm, băn khoăn, trăn trở của tác giả. Tác giả còn sử dụng các câu văn dưới dạng tu từ, bộc lộ chi tiết, thái độ và nỗi đau của tác giả. Đó là những câu như “Nói làm sao cho”… “Không có lí do gì phải nhấm bút”…; “Sao không có một “hãng” nào đó in ra…” . Tác giả còn sử dụng các từ ngữ thể hiện nỗi xót xa, bồn bã của bản thân trước vấn nạn học vẹt của học trò. Ví dụ như: nỗi khổ tâm, đeo một cái nghiệp, việc gì phải lôi thôi, bày đặt…
Câu 3: Viết một đoạn văn nghị luận để trình bày luận điểm “Chúng ta không nên học vẹt và học tủ” sao cho đoạn văn ấy vừa có lí lẽ chặt chẽ, vừa có sức truyền cảm?
Gợi ý trả lời:
Học tủ và học vẹt đang được xem là vấn nạn chung trong giới học đường ngày nay. Trước hết, chúng ta có thể hiểu “học vẹt” là cách học thuộc mà không cần suy nghĩ, học mà không hiểu nội dung mình đang làm là gì. Còn “học tủ” là cách học mà học trò chỉ mong đạt điểm cao nhờ sự may rủi.
Hai phương pháp học này đều gây ra những ảnh hưởng vô cùng tiêu cực cho người học. Nó khiến cho học sinh không chỉ hổng kiến thức, mà còn không nắm vững, hiểu bản chất được nội dung bài học. Nếu học mà chỉ dựa vào những bài mẫu có sẵn, hoặc mong chờ vòa sự may rủi thì sẽ hạn chế khả năng sáng tạo và tư duy của học trò. Do vậy, chúng ta hãy luôn có ý thức trách nhiệm với việc học của mình. Chúng ta cần xác định học là cho bản thân chứ không phải học cho ai. Từ đó, hãy tìm ra cho mình một phương pháp học tập phù hợp và đúng đắn để tạo hứng thú học tập và thành công như mong đợi.