Đó là bức tranh quê được vẽ nên bởi một tâm hồn yêu quê hương tha thiết. Nhiều người khi phân tích Tràng giang đã bị chính sự bất tận bởi không gian và thời gian của bài thơ làm cho ấn tượng. Để hiểu rõ hơn những tâm sự ẩn chứa trong những nét vẽ ấy, cùng phân tích chi tiết bài thơ Tràng giang qua bài viết dưới đây.
Mở bài
Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, ông là một tên tuổi lớn trong phong trào thơ mới 1930 – 1945. Phong cách thơ của ông được chia thành hai giai đoạn rõ rệt. Trước Cách mạng tháng Tám, các tác phẩm thơ của ông mang nỗi sầu về kiếp nhân sinh. Sau Cách mạng tháng Tám, hồn thơ của ông như được lột xác, trở nên lạc quan hơn.
Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám vẽ nên bức tranh thiên nhiên cùng nỗi sầu ưu nhân thế đó chính là “Tràng giang”. Bài thơ trích từ tập “Lửa thiêng”, được Huy Cận sáng tác khi đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước. Bài thơ mang nỗi u buồn hoài cổ, vừa miêu tả thiên nhiên, vừa nói lên nỗi lòng bao tâm sự.
Thân bài phân tích Tràng giang
Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã phần nào khái quát được chủ đề của bài thơ. Đó chính là cảm giác cô đơn, nhỏ bé khi đứng giữa đất trời mênh mông, bao la. Chính sự “bâng khuâng” của chủ thể trữ tình càng làm cho cảnh vật thêm u sầu, lạc lõng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả.
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Mở đầu bài thơ, Huy Cận đã khéo léo gợi lên một không gian bất tận. Qua không gian ấy, ta hiểu được “tràng giang” là gì. Ở đây, Huy Cận đã tinh tế khi kết hợp hai âm “ang” liền kề với nhau, điều ấy gợi lên trong lòng người đọc về một con sông không chỉ dài mà còn rộng mênh mông, bát ngát.
Hai từ láy “điệp điệp” “song song” ở hai câu đầu mang đậm sắc thái Đường thi. Không những thế, nó còn đầy tính gợi hình, giúp ta liên tưởng tới những con sóng cứ dập dìu lan xa, gối lên nhau để dòng nước cuốn đi miên man. Trên dòng sông sóng gợn “điệp điệp” với làn nước “song song” ấy xuất hiện một “con thuyền xuôi mái” lững lờ trôi. Ở đây, Huy Cận đã sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh. Dòng sông vốn có sự chuyển động là thế, nhưng ta vẫn cảm nhận một sự mênh mông, tĩnh lặng như tờ.
Trong đoạn thơ ấy, Huy Cận đã dùng hình ảnh “thuyền” và “nước” để sóng đôi với nhau. Thuyền rẽ sóng trôi trên nước, nhưng lại khiến “nước” cảm giác như bị chia xa, chẳng biết theo ngả nào. Sự xa cách được thể hiện rõ “thuyền về nước lại”, dường như thuyền với nước luôn là một sự đối lập, chẳng thể nào có thể cùng nhau sòng hành. Chính sự chia lìa ấy đã gợi nên trong lòng người nỗi “sầu trăm ngả”.
Câu cuối khổ một này chính là sự khẳng định rõ nét nhất về kiếp người nhỏ nhoi, lạc lõng “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Ở đây, Huy Cận đã sử dụng phép đảo ngữ để làm toát lên nỗi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. “Củi một cành” chứ không phải một cây, mà ở đây lại là cành khô gợi lên sự khô héo, cạn kiệt sức sống. Sức sống đã héo mòn ấy còn mang nỗi sầu trôi nổi, “lạc” trên những dòng nước đang trôi không biết đi đâu, về đâu.
Cả một khổ thơ, người ta chỉ thấy sự rời rạc, bao la, vô định. Tất cả chẳng có một hứa hẹn gì về hội tụ, mà chỉ toàn là “nước song song”, “sầu trăm ngả”,… Ở đây, Huy Cận đã dùng hình ảnh thiên nhiên buồn bã để gợi lên tâm trạng của lòng người. Đó là cảm giác lạc lõng giữa dòng đời bất tận, chẳng biết đi đâu về đâu.
Nỗi lòng lạc lòng, buồn vô tận ấy không những không được vơi bớt, mà còn được gợi mở hơn qua những hình ảnh quạnh vắng ở khổ hai:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
Chỉ một câu thơ thôi, Huy Cận đã khéo léo sắp xếp tới hai từ láy “lơ thơ” “đìu hiu” để vẽ nên bức tranh vắng lặng như tờ. Giữa khung cảnh “cồn nhỏ” ấy, người ta chẳng cảm nhận được chút gì ấm áp, mà chỉ toàn gió đìu hiu. Đó là một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều đến đáng sợ. Trước khung cảnh ấy, con người trở nên thật nhỏ bé và rồi phải tốt lên “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Khung cảnh tĩnh lặng tới mức có thể nghe thấy ở đâu đó chút âm thanh xa xôi, không rõ rệt. “Đâu” cũng như một câu hỏi, một niềm khát khao mong mỏi của nhân vật trữ tình. Dường như đứng trước cảnh vật tĩnh lặng như vậy, người ta mong một âm thanh nào đó để biết rằng sự sống vẫn còn tồn tại nơi đây.
Sự đìu hiu của cảnh vật không chỉ cảm nhận qua không gian lặng như tờ ấy, mà ngay trong đôi mắt của nhân vật trữ tình, điều đó cũng được thể hiện rõ nét. Ở đây, Huy Cận đã sử dụng hình hình ảnh nắng và trời. Theo quy luật tự nhiên, nắng và trời phải gắn liền với nhau. Nhưng ở đây lại là “nắng xuống” “trời lên”. Dường như điều ấy thể hiện cho sự đối nghịch, chẳng có một điểm chung nào. Đôi mắt của nhà thơ không chỉ dừng ở trời và nắng mà như xuyên thấu cả vũ trụ. Từ không gian, thời gian đều được thu gọn vào ánh mắt ấy. Thiên nhiên lúc này thật mênh mông với “sông dài, trời rộng”, trong khi những gì thuộc về con người thì trở nên bé nhỏ “bến cô liêu”.
Dù cố gắng quan sát để thấy được sự sống giữa khung cảnh ấy, nhưng càng nhìn càng thấy hư không. Thế nên, nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn về những gì thân thuộc nhất như muốn sưởi ấm trái tim đang lạnh lẽo, cô đơn.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Tác giả đã cố gắng tìm kiếm những điều thân thuộc sưởi ấm tâm hồn. Nhưng chẳng có gì có thể sưởi ấm tâm hồn đang ngày một lạnh lẽo của tác giả. Hình ảnh “bèo dạt” khiến người ta liên tưởng đến những gì bấp bênh, trôi nổi. Đó giống như kiếp người vậy, chẳng biết đi đâu, về đâu, chỉ vô định giữa dòng đời. Trong đó, không phải là một vài cây bèo, mà đó là “hàng nối hàng” càng khiến lòng người càng đau đớn, cô đơn hơn.
Cùng với những cánh bèo hàng nối hàng ấy là “bờ xanh tiếp bãi vàng”. Dường như càng quan sát, tác giả càng thấy không gian được mở ra rộng lớn, bao la hơn. Dường như ở đây con người và thiên nhiên chẳng có chút gì của sự kết nối, hòa hợp.
Giữa dòng sông mênh mông bất tận ấy chẳng có lấy một chuyến đò. Những gì liên quan đến con người dường như đã bị thiên nhiên nhấn chìm, trở nên vô định. Thế nên đứng giữa không gian vốn là hoài niệm, vốn là ký ức ấy nhưng tác giả lại cảm giác lạc lõng, chẳng “gợi chút niềm thân mật”.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vờn con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Ở đoạn cuối này, Huy Cận đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên cực kỳ hùng vĩ, có một chút gì ấm áp. Những lớp mây “đùn núi bạc” mang một nét đẹp cổ điển, trữ tình. Đó là cảnh vật được tạo thành ánh nắng cuối ngày chiếu vào lớp mây nhìn như dát bạc. Thông qua từ “đùn” ta đã thấy sự vận động của thiên nhiên. Những lớp mây nối tiếp nhau xuất hiện, tạo nên sự hoạt động không ngừng nghỉ.
Hình ảnh “chim nghiêng cánh nhỏ” đã được tác giả khéo léo miêu tả. Dường như thông qua cánh chim ấy, tác giả muốn ẩn chứa tâm hồn bé nhỏ của mình. Tự so sánh mình là cánh chim nhỏ, đã quá mệt mỏi vì một ngày dài và giây phút ấy cần trở về nhà, trở về nơi có sự ấm áp.
Và ở câu cuối, ta thấy được nỗi niềm bâng khuâng, cô đơn của một người yêu quê. Đó là nỗi niềm nhớ quê hương da diết. Dù đứng giữa quê hương nhưng lại thấy xa lạ, quê hương của tuổi thơ chẳng còn ở đó nữa. Quê hương ấy giờ đây chẳng còn “khói hoàng hôn”, chẳng còn những người thân thuộc nhưng vẫn làm tác giả day dứt, xót xa. Phải yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào, nhà thơ mới có thể bình tĩnh trước những thay đổi của vạn vật như vậy.
Lời kết
Tràng giang là sự kết hợp hoàn hảo giữa cổ điển và hiện đại. Nó được thể hiện qua cách dùng từ ngữ chọn lọc, qua những hình ảnh quen thuộc như: mây, sông, cánh chim,… Mỗi hình ảnh đều gợi lên cho ta bao nỗi niềm, như được sống, được cảm nhận cùng nhà thơ vậy. Phân tích Tràng giang không chỉ cho ta thấy được nỗi lòng của con người trước sự thay đổi của thời thế, mà còn thấy được nét tài hoa trên từng câu chữ của Huy Cận.