Văn mẫu phân tích
Mở bài
Hồ Chí Minh là nhà yêu nước vĩ đại, nhà cách mạng vĩ đại mà còn là nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Khi bị giam giữ ở nhà tù Tưởng Giới Thạch khi hoạt động cách mạng, Bác không hề cảm thấy sợ hãi thậm chí vô cùng lạc quan, tin tưởng vào cách mạng, vào con đường mình đã chọn. Bác vẫn bình thản bình thơ, ngâm thơ và làm thơ, thể hiện một phong thái vô cùng tự do, ung dung. Trong thời gian này, Bác đã cho ra đời tập thơ Nhật Kí Trong Tù nói về cuộc sống, tinh thần của Người khi bị giam giữ ở nhà tù Tưởng Giới Thạch. Một trong những tác phẩm hay và ấn tượng nhất phải nói đến bài thơ Chiều tối – trích trong Nhật kí Trong Tù. Tác phẩm nói về tình yêu thiên nhiên, cuộc sống và ý chí vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt của người chiến sĩ cách mạng.
Thân bài
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Bài thơ được viết khi Bác đang bị đưa từ nhà tù này đến nhà tù khác, trên đường đi là cảnh chiều tối, chân đã bắt đầu mỏi và cảnh vật xung quanh cũng đang dần chìm trong bóng tối. Lúc này, Bác đang quan sát và nhìn thấy không gian bao la, cảnh vật thuận theo tự nhiên, chiều xuống thì cánh chim sẽ mỏi mải miết về rừng tìm chốn ngủ, những đám mây cũng trôi nhẹ lững lờ giữa không trung.
Hai câu thơ đầu mở ra một bức tranh thiên nhiên chiều tối có chút nhanh mà cũng có chút chậm. Không gian rộng lớn cao xa, thoáng đãng những gợn buồn nói lên sự trống vắng, lẻ loi. Đây là những chi tiết rất quen thuộc trong ca dao thơ cổ ước lệ và mang màu sắc tượng trưng. Tuy nhiên, qua câu thơ của Bác vẫn thấy vô cùng gần gũi, hòa mình vào thiên nhiên và phù hợp với nhân vật trữ tình.
Hình ảnh cánh chim trong thơ cổ rất nhiều, ví dụ như cánh chim én trong Cảnh Ngày Xuân của Nguyễn Du
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Tả về không gian thời gian, tác giả hầu như đều miêu tả cánh chim. Cánh chim thể hiện được thời gian đó như thế nào. Trong mùa xuân của Nguyễn Du, đó là cánh chim én chao liệng trên bầu trời, báo hiệu mùa xuân về. Còn trong Chiều Tối của Hồ Chí Minh đó là cánh chim sau một ngày kiếm ăn mệt mỏi tìm về nơi trú ngụ. Cánh chim ở đây hay chính là người tù, sau một ngày mệt mỏi đầy ải cũng muốn dừng chân nghỉ ngơi, cũng khao khát trở về với gia đình.
Đám mây lơ lửng kia hay chính là nỗi cô đơn của người tù nơi đất khách quê người. Hai câu thơ chính là nỗi lòng của tác giả, tâm trạng của nhân vật trữ tình. Người tù không than thở, không trách móc mà ở đây ta tìm thấy sự đồng cảm sẻ chia từ thiên nhiên. Qua đây người đọc cảm nhận được một phong thái ung dung tự tại của một con người mất tự do nhưng vẫn làm chủ mọi tình huống. Chính những điều này đã cho thấy vẻ đẹp hiện đại của thơ Bác ẩn chứa trong những vần thơ cổ.
Sang đến hai câu sau, người đọc lại cảm nhận một bức tranh sôi động, bừng sáng hơn:
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
Nếu hai câu thơ đầu có phần ảm đạm, buồn lãng đãng thì sang đến hai câu thơ cuối, người đọc cảm thấy một bức tranh có màu sắc tươi tắn trẻ trung, khỏe khoắn khác lạ. Tác giả đã sử dụng thành công nghệ thuật mượn mây nẩy trăng và cụ thể hơn, trong bài thơ này tác giả đã mượn hình ảnh lò than để nói về bóng tối. Không gian màn đêm càng buông xuống đậm hơn thì ngọn lửa càng đỏ rực hơn. Hình ảnh độc đáo vô cùng, mang âm hưởng mới mẻ hiện đại.
Bức tranh thứ hai tác giả “vẽ” lên đó là hình ảnh lao động hăng say của người lao động. Hình tượng thơ đã có sự chuyển động từ thiên nhiên sang cuộc sống con người, tâm trạng nhà thơ đang buồn cũng trở nên vui và dường như nhà thơ đã quên hẳn nỗi buồn riêng mà hòa nhập vào thiên nhiên, cuộc sống con người. Cô gái đang xay ngô tối không phải thoáng qua để trang điểm cho bức tranh mà chính là nhân vật chính. Đây không phải là cô gái tiểu thư khuê các, lãng mạnh mà là người lao động mạnh mẽ, khỏe khoắn, một cái đẹp trong cuộc sống và đi vào thơ một cách tự nhiên. Ở miền sơn cước, khi trời nhá nhem tối, tác giả vẫn kịp nhìn thấy hình ảnh cô gái đang làm việc miệt mài, một vẻ đẹp khỏe khoắn khó có thể rời mắt, qua đây cho thấy cuộc sống xung quanh nhộn nhịp và đầy đủ.
Bên cạnh hình ảnh cô gái đó là hình ảnh bếp lửa. Đây là hình ảnh vô cùng gợi hình, gợi lên một gia đình ấm áp, sum họp. Nói đến bếp lửa, chúng ta lại nhớ đến bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, Bếp lửa không chỉ đơn giản là bếp mà nó còn là sự ấm áp của gia đình, sự khao khát trở về sum họp bên gia đình. Đây cũng chính là khao khát của Bác, khao khát tự do và trở về bên quê hương, đoàn viên cùng gia đình.
Cả bài thơ khi đọc, tưởng là hai bức tranh rời nhau, một bức tranh về thiên nhiên với cánh chim và đám mây lãng đãng, một bức tranh về con người, tổ ấm với hình ảnh cô thôn nữ và bếp lửa hồng. Nhưng thực ra, trong hai bức tranh ấy đều giống nhau đó là sự chuyển động về thời gian và không gian, sự chuyển động trong tâm trạng từ cô đơn đến ấm áp. Hình ảnh cánh chim bay về tổ gợi đến sự đoàn tụ, chòm mây cô đơn nhưng lại gợi một tâm hồn khoáng đạt, phong thái ung dung tự tại, làm chủ trong mọi hoàn cảnh. Cô gái xay ngô thệ sự vận động và thời gian chiều tối từ mờ nhạt đến đêm để làm nổi bật nên ánh lửa hồng. Thời gian cũng luân chuyển và chữ “hồng – lửa” đã khiến cho bài thơ sáng và mang lại thần sắc.
Cả bài thơ không chỉ nói về thiên nhiên mà qua đó còn nó đến tâm hồn người chiến sĩ cộng sản luôn lạc quan tin tưởng và hướng về ánh sáng, những điều tốt đẹp. Bài thơ là sự chuyển động từ cô đơn đến ấm áp, từ chậm đến nhanh, từ bóng tối tới ánh sáng, mở ra bức tranh thiên nhiên và con người tươi đẹp, rộn ràng hơn.
Kết bài
Bằng sự hài hòa trong ngòi bút, bằng biện pháp nghệ thuật tả cảnh và lấy bóng tối tả ánh sáng, sự pha trộn giữa vẻ đẹp hiện đại và cổ điển trong thơ ca đã tạo nên một phong cách thơ Hồ Chí Minh độc đáo, góp phần giúp người đọc hình dung rõ nét chân dung Hồ Chí Minh. Bài thơ cho thấy tâm thái ung dung, tự tại lạc quan của Bác trước những khó khăn gian khổ. Chỉ với 29 chữ thật tài tình đã xây dựng lên một bức tranh cảnh thiên nhiên và chân dung người lao động nơi xóm núi. Bài thơ thực sự đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, sự cảm phục tâm thái của Bác khi bị gồng xích và bị đày ải. Qua bài thơ, chúng ta, những thế hệ trẻ càng kính yêu Bác Hồ vĩ đại và càng phải tự nhủ, cố gắng học tập để có thể đóng góp phần nào sức trẻ, trí thức vào công cuộc xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh hơn.