Bài mẫu phân tích
Chủ nghĩa nhân đạo là đề tài xuyên suốt tiến trình văn học của dân tộc. Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du cũng là một trong những tác phẩm nổi bật nhất. Thông qua nghiên cứu Độc Tiểu Thanh kí phân tích chi tiết nhất, ta sẽ thấy được tình yêu, tấm lòng của tác giả với số phận con người.
Khái quát tác giả, tác phẩm
Nguyễn Du được xem là một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của dân tộc. Ông được mệnh danh là đại thi hào của văn học Việt Nam. Trong suốt cuộc đời sáng tác của mình, ông đã để lại vô vàn những tác phẩm có giá trị ở cả chữ Hán và chữ Nôm. Tác phẩm của ông luôn chan chứa tình yêu thương con người, trân trọng những điều tốt đẹp bên trong con người.
“Độc Tiểu Thanh kí” là một trong số những sáng tác bằng chữ Hán tiêu biểu của Nguyễn Du. Độc Tiểu Thanh kí phân tích Nó đã thể hiện được những cảm xúc, suy tư của tác giả về số phận bất hạnh của người phụ nữ xã hội cũ. Đồng thời qua tác phẩm, chúng ta có thể cảm nhận sâu sắc và trân trọng tấm lòng nhân đạo, yêu thương con người của ông.
Phân tích chi tiết
- Luận điểm 1: Hai câu đề
Mở đầu bài thơ, tác giả đã khắc hoạ nên hoàn cảnh, bối cảnh sác tác:
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.”
Ở đây, tác giả đã sử dụng hình ảnh thơ đối lập giữa quá khứ và hiện tại: “Tây Hồ hoa uyển” (vườn hoa bên Tây Hồ) với “thành khư” (gò hoang). Cùng với đó, động từ “tẫn” nhằm thể hiện sự triệt để đến cùng của sự vật. Từ đó, câu thơ đã gợi ra một nghịch cảnh giữa quá khứ và hiện tại: Vườn hoa bên Tây Hồ xưa kia nay đã thành bãi đất hoang, không có sự sống. Vì vậy lời thơ khơi gợi sự xót xa của nhà thơ trước sự đổi thay, sự tàn phá của thời gian đối với cái đẹp.
Tác giả cũng rất tài tình khi sử dụng các từ chỉ sự đơn độc: “độc điếu” (một mình viếng) và “nhất chỉ thư” (một tập sách). Với hai hình ảnh đó, tác giả như muốn nhấn mạnh sự cô đơn tột cùng của con người. Đồng thời cũng nhấn mạnh cả sự tương xứng trong cuộc gặp gỡ này. Đó là cuộc gặp gỡ của một người mang trạng thái cô đơn với một kiếp bất hạnh, đơn độc.
Độc Tiểu Thanh kí phân tích Chỉ với hai câu thơ, tâm trạng của tác giả đã được thể hiện một cách rõ ràng. Tác giả đã ngỡ ngàng trước cảnh tượng thiên nhiên hoang vắng, tàn tạ và cũng vô cùng xót xa, tiếc nuối cho số phận éo le của nàng Tiểu Thanh.
- Luận điểm 2: Hai câu thực
Tiếp theo, tác giả miêu tả rõ nét số phận của nàng Tiểu Thanh thông qua hai câu thơ tả thực:
“Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.”
Đến đây, tác giả đã sử dụng nghệ thuật hoán dụ rất tài tình. Hình ảnh “chi phấn” là tượng tượng trưng cho vẻ đẹp, sắc đẹp của người phụ nữ. Còn “văn chương” lại tượng trưng cho tài năng, trí tuệ của con người. Việc sử dụng từ hoán dụ như vậy đã gợi tả người con gái vừa có tài, vừa có sắc, hoàn hảo, rất đáng trân trọng.
Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các từ ngữ diễn tả cảm xúc như “hận”, “vương” để thể hiện tình cảm của mình. Đó là sự tiếc nuối, xót xa cho tài năng và dung mạo của người thiếu nữ bạc mệnh. Các từ “chôn”, “đốt” đều là những động từ cụ thể hóa sự ghen ghét, sự vùi dập vô cùng phũ phàng của người vợ cả đối với nàng Tiểu Thanh. Đây cũng là điển hình cho thái độ của xã hội phong kiến khi xưa. Ở đó, họ không chấp nhận những con người tài sắc vẹn toàn như nàng, chỉ chực tìm cách vùi dập, đè nén những số phận bất hạnh ấy.
Thông qua lời thơ, Nguyễn Du cũng bộc lộ triết lí của mình về số phận con người trong xã hội phong kiến. Với ông, họ là những người tài hoa nhưng bạc mệnh, “tài mệnh tương đố”, “hồng nhan đa truân”. Và khi có tài, có sắc, họ sẽ bị vùi dập không thương tiếc:
“Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần
(Truyện Kiều)
Qua hai câu thơ, Nguyễn Du đã cực tả nỗi đau về số phận bất hạnh của nàng Tiểu Thanh tài sắc. Đồng thời cũng bộc lộ tấm lòng ca ngợi, trân trọng nhan sắc và đề cao tài năng, trí tuệ của nàng Tiểu Thanh. Không những thế, nó còn có sức tố cáo mạnh mẽ đối với xã hội phong kiến bấy giờ khi vùi kiếp người xuống dưới bùn đen.
- Luận điểm 3: Hai câu luận
Tiếp đó, tác giả suy ngẫm rộng ra về số phận con người, với cuộc đời:
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.”
Cụm từ “cổ kim hận sự” nhằm diễn tả mối hận xưa và nay. Đó không chỉ là mối hận nhất thời mà là mối hận muôn đời, mối hận truyền kiếp. Và cũng chính là mối hận của những người tài hoa mà bạc mệnh đối với cuộc đời đầy rẫy những bất công. Nỗi hận ấy thật sự là “thiên nan vấn”, khó mà có thể hỏi trời được. Câu thơ này đã mang tính khái quát cao, biểu trưng cho cả xã hội. Nỗi hận kia không phải là nỗi hận của riêng nàng Tiểu Thanh hay của tác giả Nguyễn Du mà còn là của tất cả những con người tài hoa trong xã hội phong kiến cũ. Câu thơ đã thể hiện rõ nét sự đau đớn và phẫn uất cao độ trước một thực tế vô lí của cuộc đời. Đó là người có nhan sắc thì bất hạnh, nghệ sĩ có tài năng lại thường cô độc. Nỗi trái ngang ấy, không biết phải làm sao được.
Nhấn mạnh thêm nỗi đau đớn của số phận Tiểu Thanh, tã giả sử dụng từ “kì oan”, là nỗi oan lạ lùng, hiếm gặp. Kết hợp với đó, từ “ngã” nhẳm chỉ bản thể cá nhân. Đây là cái khẳng định mình đầy táo bạo so với thời đại Nguyễn Du đang sống. Tác giả đã không đứng bên ngoài mà nhìn vào nữa, mà giờ đây ông trở nên chủ động, tự mình đi tìm sự tri âm với nàng, với những người tài hoa nhưng bạc mệnh. Qua đó, ta thấy được tấm lòng trân trọng cái đẹp của nhà thơ. Ông không chỉ xót thương riêng cho nàng Tiểu Thanh mà còn bàn ra tới nỗi hận của muôn người, muôn đời. Và trong đó có chính bản thân nhà thơ. Qua đó, thể hiện sự cảm thông của nhà thơ đối với nhân vật đã đến độ “tri âm tri kỉ”, thấu hiểu và tìm được điểm chung.
- Luận điểm 4: Hai câu kết
Sau cùng, tác giả sử dụng hai câu kết để khóc cho người, khó cho mình kwr tương lai:
“Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”
Đến đây, Nguyễn Du đã sử dụng câu hỏi tu từ một cách độc đáo. Nguyễn Du khóc nàng Tiểu Thanh, đồng thời cũng băn khoăn và khóc thương cho chính mình. Ông băn khoăn, trăn trở rồi hậu thế ai sẽ khóc thương ông, liệu có ai đồng cảm với ông hay không? Điều này đã thể hiện nỗi cô đơn của nghệ sĩ lớn “Tiếng chim cô lẻ giữa trời thu khuya” (Xuân Diệu). Ông cảm thấy mình lạc lõng vô cùng ở hiện tại và đã tìm thấy được một người làm tri âm, tri kỉ ở quá khứ. Thế nhưng bản thân vẫn ước mong, mong ngóng một tấm lòng thấu hiểu mình trong tương lai, như mình đã tìm đến và thấu hiểu nàng Tiểu Thanh Vậy. Điều này đã cho thấy vượt qua mọi không gian, thời gian, trái tim yêu thương và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyên du vẫn còn tồn tại mãi.
Kết bài
Khép lại bài thơ Độc Tiểu Thanh kí, ta vẫn không khỏi xót xa cho nàng Tiểu Thanh tài giỏi nhưng bạc mệnh. Đồng thời thấy tấm lòng yêu thương, vị tha, thấu cảm của Nguyễn Du với những con người bất hạnh trong xã hội cũ.
>> Đọc thêm: Phân tích bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du chi tiết