Nếu các em đang tìm kiếm tài liệu về tác phẩm tỏ lòng, đừng bỏ qua dàn ý phân tích dưới đây. Chúng tôi sẽ lập dàn ý chi tiết, đầy đủ nội dung và nghệ thuật, hi vọng sẽ giúp các em có thêm kiến thức và làm bài dạng liên quan tốt nhất.

Dàn ý phân tích chi tiết

Mở bài

– Giới thiệu về tác giả Phạm Ngũ Lão: ông là người văn võ song toàn.

– Giới thiệu bài thơ Tỏ Lòng: Tác phẩm ra đời sau chiến thắng nhà Trần đánh đuổi quân Nguyên Mông. Nội dung bài thơ thể hiện khí thế thời đại, niềm vui, niềm tự hào đồng thời cũng thể hiện ý thức làm người, chí lớn của nam nhi.

Ví dụ: Phạm Ngũ Lão sinh thời là một vị tướng xuất sắc cảu triều đại nhà Trần. Ông rất được Vua tin mến và gả con gái nuôi cho. Không chỉ có tài về quân sự, ông còn có năng khiếu văn chương. Ông rất thích đọc sách, ngâm thơ và từng viết nhiều bài thơ về chí làm trai, lòng yêu nước. Nhưng hiện nay, các tác phẩm của ông đều bị thất lạc và còn lưu truyền lại tác phẩm Tỏ Lòng và Văn Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Vương. Tỏ Lòng là tác phẩm được sáng tác khi cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông chiến thắng. Tác phẩm thể hiện niềm tự hào, niềm tin và thể hiện ý chí làm trai của nam nhi.

Thân bài

Luận điểm 1: Hình tượng nam nhi nhà Trần

Hai câu đầu:

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

Tạm dịch:

Múa giáo non sông trải mấy thu

Ba quân khí mạnh nuốt trôi sông

– Nội dung hai câu đầu thể hiện hình ảnh người tráng sĩ đời Trần hiên ngang, dũng cảm trấn giữ đất nước, nong sông.

– Từ Hoành Sóc thể sự hiên ngang của người Tráng sĩ. Từ có nghĩa là cầm ngọn giáo tư thể ngang thể hiện tư tưởng hiên ngang, vững chãi, oai phong lẫm liệt, sẵn sàng đối mặt với kẻ thù. Đây chính là hình ảnh mà của người tráng sĩ xưa. Qua câu thơ người đọc cũng cảm thấy sự rắn rỏi, mạnh mẽ từ con người đến ý chí của người tráng sĩ.

– Hoành sóc giang có nghĩa là một hành động cụ thể của người tráng sĩ, đó là giữ non sông.

– Cáp kỉ thu có nghĩa là con người xuất hiện với tinh thần chiến đấu không mệt mỏi, qua ngày qua tháng, trải mấy thu – mấy năm.

>> Câu thơ trên cho thấy hình ảnh một người tráng sĩ đời Trần cầm ngọn giáo, dũng mãnh hiên ngang, không sợ khó khăn, gian khổ, họ sẵn sàng bảo vệ tổ quốc với tinh thần chiến đấu không mệt mỏi. Hìn ảnh những con người xuất hiện kì vĩ hiên ngang, khí thế hừng hực mang tầm vóc anh hùng ca và hào khí Đông A.

– Tam tì hổ – Đây chính là nghệ thuật so sánh sức mạn của quân dân nhà Trần, đồng thời cũng cụ thể hóa sức mạnh, cho thấy đội quân mạnh mẽ mang hào khí Đông A. Đây cũng là hình ảnh tượng trưng sức mạnh của đất nước, sẵn sàng đối mặt với mọi kẻ thù xâm lược.

– Nuốt trôi trâu thể hiện hình ảnh ba quân mạnh mẽ, hào hùng, khung cảnh tưng bừng khí thế tấn công hùng dũng, sẵn sàng trong tư thế chinh chiến. Câu thơ cho thấy con người xuất hiện trong không gian rộng lớn, mở theo chiều rộng của núi sông và không gian đó không làm cho con người nhỏ bé đi, chỉ khiến cho con người trở nên mạnh mẽ, oanh oanh liệt liệt, khí thế bừng bừng.

>>> Câu thơ co thấy đây là hình ảnh người tráng sĩ đời Trần lồng trong hình ảnh đất nước đẹp, thật hoành tráng. Tác giả mượn hình ảnh những người tráng sĩ để nói về đất nước hào hùng, lấy con người để nói thời đại. Đây chính là thời đại hào hùng, tự hào nhất và những con người nhiều nhiệt huyết nhất.

  • Kết hai câu thơ (tạm kết)

– Như vậy hai câu thơ mở đầu nói về hình ảnh người tráng sĩ đời Trần oai phong lẫm liệt, hiên ngang, hào khí Đông A, đồng thời cũng nói lên hình ảnh đất nước giàu mạnh, hào hùng và không sợ bất kì kẻ thù xâm lược nào. Qua đây cũng thấy được niềm tự hào dân tộc, tự hào về đất nước, con người của Phạm Ngũ Lão. Chiến thắng kẻ thù không thể do một cá nhân mà phải do sự đoàn kết của những con người trong cùng một đất nước, mỗi người mỗi việc, tráng sĩ thì lo luyện binh đao, “nuôi ba quân dụng một giờ”, tinh thần thép, sẵn sàng chiến đấu. Nhân dân lo việc trồng trọt, chăn nuôi, chăm lo đời sống. Nhờ vậy mà đất nước mới phục hưng.

Luận điểm 2: Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão

Hai câu cuối chi tiết:

Nam nhi vị liễu công danh trái,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu

Tạm dịch:

Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu

– Quan điểm nợ công danh ở đây là theo quan niệm nhà Nho, đây là món nợ lớn mà một trang nam nhi khi sinh ra đã mang trong mình. Điều này muốn nói đến chí nam nhi, cần phải làm những việc lớn lao, có ý nghĩa cho đất nước. >> Theo như quan niệm này thì có nghĩa là cần phải lập công như để lại chiến công sự nghiệp và lập danh như để lại tiếng thơm cho hậu thế. Người làm trai ở thời này cần phải làm cho xong hai nhiệm vụ này thì mới được coi là trả món nợ công danh cho đời.

– Có thể liên hệ với những bậc kì tài như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bình Khiêm, Cao Bá Quát… Họ đều là những người trăn trở về món nợ công danh.

– Phạm Ngũ Lão quan niệm nếu như đã làm thân nam nhi mà không thể trả được món nợ công danh thì thấy thẹn, thấy thua kém và thấy mình chưa bằng người khác >> Một cảm giác xấu hổ.

– Tác giả nói đến Vũ Hầu: Đây là Khổng Minh, một tấm gương về tinh thần tận tâm, tận lực báo đáp chủ tướng. Ông đã hết lòng trả món nợ công danh đến hơi thở cuối cùng, và để lại sự nghiệp vẻ vang, tiếng thơm cho hậu thế. >> Ông là hình mẫu mà biết bao đấng nam nhi noi theo.

>> Phạm Ngũ Lão thuở hàn vi là người chuyên tâm lo việc nước nên quên đi sự nguy hiểm của mình, hết lòng phục vụ nhà Trần và được phong tới chức Điện Súy, tước Nội Hậu. Ông được vua Trần Hưng Đạo vô cùng tin mến và gả con gái nuôi cho. Vậy mà ông vẫn hổ thẹn với đất nước >> Cho thấy tấm lòng của ông, sự cao cả trong nhân cách lớn. Thể hiện khao khát và hoài bão luôn hướng về phía trước, thực hiện lý tưởng.

>> Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão đã đánh thức ý làm trai, phải lập chí hướng, phải cống hiến cho dân, cho nước. Đây là tư tưởng lớn của nam tử đời nhà Trần.

Đây cũng là bài học thanh niên ngày nay, sống cần phải có ước mơ, hoài bão, phải biết qua khó khăn thử thách để biến ước mơ thành hiện thực.

  • Kết hai câu thơ (tạm kết)

Nội dung hai câu thơ thể hiện sự hổ thiện của một nhân cách lớn, một người tài giỏi, đồng thời cũng khích lệ tinh thần nam nhi cần phải có ước mơ, hoài bão, ý chí phải trả món nợ công danh cho đời.

  • Nghệ thuật

– Tác giả sử dụng nghệ thuật mượn tích để nói nỗi lòng

– Bút pháp biểu cảm

Kết bài

– Cần khái quát lại nội dung và nghệ thuật của bài thơ

– Nếu cảm nghĩ bản thân và liên hệ với những bài thơ cùng chủ đề để tôn lên chí làm trai như bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư của Trần Quang Khải hoặc Cảm hoài của Đặng Dung…

>> Cảm nghĩ bản thân: Được sống trong thời bình, tự hổ thẹn với các bậc cha anh, cần phải nỗ lực học tập hơn nữa, xây dựng ước mơ, hoài bão để thực hiện và theo đuổi, cống hiến cho đất nước.