Soạn Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Phần 2: Tác phẩm Trang 60-65 Ngữ văn 11 Tập 1

(Soạn Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Phần 2: Tác phẩm)

HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

Câu 1(Soạn Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Phần 2: Tác phẩm): Đọc Tiểu dẫn, nắm những nét cơ bản về thể văn tế. Tìm bố cục của bài văn tế này.

Trả lời:

+ Những nét cơ bản về thể văn tế:

– Khái niệm Văn tế: là loại văn thường gắn với phong tục tang lễ, nhằm bày tỏ lòng tiếc thương đối với người đã mất, văn tế thường có nội dung cơ bản, kể lại cuộc đời công đức phẩm hạnh của người đã mất và bày tỏ tấm lòng xót thương sâu sắc.

– Văn tế có thể được viết theo nhiều thể: văn xuôi, thơ lục bát, song thất lục bát, phú… Giọng điệu chung của bài văn tế nói chung là lâm li, thống thiết, sử dụng nhiều thán từ và những từ ngữ, hình ảnh có giá trị biểu cảm mạnh.

– Bố cục bài văn tế thường có 4 đoạn:

  • Lung khởi: (Mở đầu: thường nói nỗi đau ban đầu và nêu ấn tượng khái quát về người chết).
  • Thích thực (hồi tưởng công đức người chết).
  • Ai vãn (than tiếc người chết)
  • Kết (vừa tiếp tục than tiếc vừa nêu lên ý nghĩ của người đứng tế).

+ Bài Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu đã theo đúng bố cục của một bài văn tế truyền thống của thời trung đại, gồm 4 phần sau đây:

  • Lung khởi: (hai câu đầu): khái quát bối cảnh bão táp của thời đại và khẳng định ý nghĩa cái chết bất tử của người nghĩa sĩ nông dân.
  • Thích thực: (câu 3 – 15): tái hiện chân thực hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân, từ cuộc đời lao động vất vả, tủi cực bỗng chốc trở thành dũng sĩ đánh giặc, lập chiến công vẻ vang.
  • Ai vãn: (câu 16 – 27): đây là niềm xót thương đối với người đã khuất và tấm lòng xót thương sâu sắc của tác giả đối với những người đã hi sinh vì đất nước, đã hi sinh cho sự nghiệp đánh giặc cứu nước của dân tộc.
  • Kết: (hai câu cuối): ca ngợi linh hồn bất diệt của các nghĩa sĩ.

Câu 2: Hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ được tái hiện trong bài văn tế như thế nào? (Chú ý phân tích qua cả quá trình: hình ảnh họ trong cuộc sống đời thường, những biến chuyển khi giặc xâm phạm tấc đất ngọn rau, bát cơm manh áo, vẻ đẹp hào hùng của đội quân áo vải trong trận nghĩa đánh Tây)

Theo anh/chị, cách miêu tả này đạt giá trị nghệ thuật cao ở những điểm nào? (Về nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật ngôn ngữ, bút pháp chữ tình)

Trả lời:

+ Hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ được tái hiện trong bài văn tế:

a) Nguồn gốc xuất thân:

+ Những người chiến sĩ cần giuộc đều xuất thân từ những người nông dân chất phát cần cù làm ruộng, là những người dân ấp, dân lậm nhưng ở trong họ là tình yêu quê hương đất nước cao đẹp

+ Nghệ thuật tương phản: chưa quen >< chỉ biết, vốn quen >< chưa biết.

– Tác giả nhấn mạnh việc quen và chưa quen của người nông dân để tạo ra sự đối lập về tầm vóc của người anh hùng.

+ Vẻ bề ngoài chỉ là những người nông dân nhưng họ lại có những phẩm chất rất đáng ngợi khen, do hoàn cảnh nghèo đói túng thiếu những người chiến sĩ này phải chăm chỉ làm ăn và có những chiến công vang dội cho dân cho nước.

b) Lòng yêu nước nồng nàn:

+ Tình cảm: xuất hiện trong họ lòng căm thù giặc. Họ có một tấm lòng rất đáng quý dám xả thân vì đất nước, tuy tay cày tay bừa nhưng khi có chiến tranh họ sẵn sàng cầm súng để chiến đấu, không một kẻ thù nào có thể đánh bại ý chí kiên cường của những người chiến sĩ cần giuộc.

+  Khi thực dân Pháp xâm lược người nông dân cảm thấy lo sợ→ trông chờ→ căm thù → đứng lên chống lại.

– Nhưng khi thấy tàu giặc chạy trên sông: “muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ.”.

→ Diễn biến tâm trạng của người nông dân: Họ nhận thức đất nước là một dải giang sơn gấm vóc, không thể để kẻ thù thôn tính.

c) Tinh thần chiến đấu hi sinh của người nông dân:

+ Quân trang, quân bị rất thô sơ: một manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, rơm con cúi… đã đi vào lịch sử. Trang bị khi ra trận rất thô sơ và mộc mạc: manh áo vaỉ, ngọn tầm vông, rơm con cú, lưỡi dao phay. Những công cụ đó rất quen thuộc đối với nhân dân thì nay nó lại trở thành những công cụ chiến đấu đắc lực của những người chiến sĩ Cần Giuộc.

– Tác giả sử dụng những động từ chỉ hành động mạnh mẽ với mật độ cao, nhịp độ khẩn trương, sôi nổi: đạp rào, lướt xông vào, đặc biệt là những động từ chỉ hành động rứt khoát: đốt xong, chém rớt đầu. Sử dụng các động từ chéo: đâm ngang, chém ngược→ làm tăng thêm sự quyết liệt của trận đánh.

=> Nguyễn Đình Chiểu đã tạc một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân nghĩa sĩ đánh giặc cứu nước.

+ Cách miêu tả của tác giả đạt giá trị nghệ thuật cao ở những điểm sau:

  • Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nhân vật được khắc họa trên hai bình diện đối lập, trái ngược nhưng lại bổ sung ý nghĩa cho việc xây dựng nhân vật. Tạo hình ảnh đối lập giữa ta và địch: Kẻ thù (đạn nhỏ, đạn to, tàu thuốc, tàu đồng) >< Ta (vũ khí thô sơ, quân trang không có).
  • Nghệ thuật ngôn ngữ: ngôn ngữ giàu hình ảnh, màu sắc biểu tượng cao, kết hợp giữa ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân vừa trang trọng vừa dân dã mang đậm sắc thái Nam Bộ.
  • Bút pháp chữ tình kết hợp nhuần nhuyễn với tự sự, đậm đặc các yếu tố miêu tả. Ngòi bút hiện thực kết hợp với chất chữ tình sâu lắng.

==> Thể hiện sâu sắc tinh thần dũng cảm, vì đất nước xả thân quên mình.

Câu 3: Tiếng khóc bi tráng của tác giả xuất phát từ nhiều nguồn cảm xúc. Theo anh/chị, đó là những cảm xúc gì? Vì sao tiếng khóc đau thương này lại không hề bi lụy?

Trả lời:

+ Tiếng khóc bi tráng của tác gải xuất phát từ nhiều nguồn cảm xúc. Đó là:

– Tiếng khóc xót thương cho người đã mất: Nỗi xót thương đối với người liệt sĩ phải hi sinh sự nghiệp dang dở, ra đi khi chí nguyện chưa thành. Đó là tiếng khóc của tác giả, của gia đình thân quyến, của nhân dân Nam Bộ và cả nước. Nguyễn Đình Chiểu đã nhân danh vận nước, nhân danh lịch sử mà khóc những người dân anh hùng xả thân cho Tổ quốc. Đấy là tiếng khóc có tầm vóc sử thi, tầm vóc thời đại.

– Khóc cho người còn sống: Nỗi xót xa của gia đình mất người thân, với những mẹ già, vợ trẻ, con thơ. Giờ đây những người mẹ già đêm đến khóc con những người vợ yếu chạy đi tìm. Câu văn này cũng cho ta thấy được sự đồng cảm sâu sắc của nhà thơ đối với các gia đình liệt sĩ

– Khóc cho quê hương, đất nước. Nỗi căm hờn những kẻ đã gây ra nghịch cảnh éo le hòa chung với tiếng khóc uất ức nghẹn ngào trước cảnh đau thương của đất nước, của dân tộc. Nhiều niềm cảm thương cộng lại thành nỗi đau sâu nặng, không chỉ ở trong lòng người mà dường như còn bao trùm khắp cỏ cây, sông núi, tất cả đều nhuốm màu tang tóc, bi thương:

Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng…

Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen…

+ Tiếng khóc đau thương này không hề bi lụy bởi vì trong nỗi đau vẫn có niềm cảm phục và tự hào đối với người nghĩa sĩ. Đó là những người dân bình thường đã dám đứng lên bảo vệ từng tấc đất ngọn rau, bát cơm manh áo của mình chống lại kẻ thù hung hãn, lây cái chất để làm rạng ngời một chân lí cao đẹp của thời đại – thà chết vinh còn hơn sống nhục. Ngoài ra nó còn chứa đựng niềm kính trọng, biết ơn, tự hào về công đức, về lòng yêu nước của những người đã khuất.

Câu 4: Sức gợi cảm mạnh mẽ của bài văn tế chủ yếu là do những yếu tố nào? Hãy phân tích một số câu tiêu biểu.

Trả lời:

+ Sức gợi cảm mạnh mẽ của bài văn tế chủ yếu là nhờ những cảm xúc chân thành, sâu nặng và mãnh liệt của nhà thơ và những những yếu tố biểu cảm kết hợp tự sự, miêu tả.

+ Nó được thể hiện tiêu biểu qua những câu văn sau:

– Ôi! Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ.

– Ôi thôi thôi! Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rầm…

Câu văn nói về nỗi tiếc hận của người phải hi sinh khi sự nghiệp còn đang dang dở, chí nguyện chưa thành.

Câu văn như được viết bằng nước mắt xót thương vô hạn của Đồ Chiểu. Đó là niềm tiếc thương vô hạn với đồng bào, với một phần máu thịt của Tổ quốc. Dù họ hi sinh nhưng những công lao và hình ảnh của họ như những tượng đài trường tồn, sống mãi trong thơ văn Việt Nam.

“- Đau đớn đấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, con bóng xế dật dờ trước ngõ…”

Câu văn thể hiện nỗi đau xót, nhớ thương da diết của gia đình những người nghĩa sĩ đã hi sinh, nỗi đau được cụ thể hóa nhờ những hình ảnh miêu tả, những chi tiết được kể.

LUYỆN TẬP

Câu 1: Đọc diễn cảm bài văn tế.

Trả lời:

Các em học sinh tự tập đọc nhiều lần ở nhà sau đó đọc diễn cảm bài văn tế trước lớp.

Câu 2: Nói về quan niệm sống của ông cha ta thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, Giáo sư Trần Văn Giàu đã viết: “Cái sống được cha ông ta quan niệm là không thể tách rời với hai chữ nhục, vinh. Mà nhục hay là vinh là sự đánh giá theo thái độ chính trị đối với cuộc xâm lược của Tây: đánh Tây là vinh, theo Tây là nhục”.

Anh (chị) hãy viết một đoạn văn ngắn phân tích những câu trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc thể hiện đầy đủ, sâu sắc triết lí nhân sinh đó.

Trả lời:

Đoạn văn tham khảo:

Nói về quan niệm sống của cha ông ta thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, giáo sư Trần Văn Giàu đã viết: “cái sống được cha ông ta quan niệm không thể tách rời với hai chữ nhục, vinh. Mà nhục hay vinh là sự đánh giá theo thái độ chính trị đối với cuộc xâm lược của Tây: đánh Tây là vinh, theo Tây là nhục”. Đọc “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu, ta thấy được sự thể hiện đầy đủ, sâu sắc triết lý nhân sinh đó.

Ngay từ đầu bài văn tế, tác giả đã dành một lời khẳng định tuyệt đối dành cho niềm vinh quang của những người sống theo chân lý về sự vinh, nhục đó: “Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi tợ phao; một trận nghĩa đánh Tây tuy là mất tiếng vang như mõ”. Nhà thơ đã lấy sự đối lập giữa cuộc đời của một nông dân bình thường, bình lặng không được ai biết đến với một cuộc sông “một phút huy hoàng”, được sống, chiến đấu và hi sinh hết mình cho sự nghiệp cứu nước vinh quang.

Quan niệm: thà chết vinh còn hơn sống nhục của vị tướng thời Trần, Trần Bình Trọng đã trở thành một quan niệm sống của những người nghĩa sĩ yêu nước Cần Giuộc. Nguyễn Đình Chiểu đã thay lời họ nói lên những lời khẳng khái: “Sống làm chi theo quân tà đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc thấy lại thêm buồn; sông làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ”.

Cuộc sống đi theo quân tà đạo là một cuộc sống nhục nhã, đi ngược lại với đạo đức và truyền thống của nhân dân Việt Nam, “chia rượu lạt, gặm bánh mì” từ những kẻ thực dân đế quốc như một sự ăn xin, nhục nhã, ê chề, không chỉ hổ thẹn với đất nước mà cũng nên hổ thẹn cả với chính bản thân mình.

Và ông nói thay cho quan niệm sống của những người nông dân, mà cũng chính là quan niệm sống của mình: “Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh, hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ”. Họ thà chọn cho mình cái chết nhưng giữ vững được tinh thần, ý chí chống kẻ thù (câu địch khái) để khỏi hổ thẹn với tổ tiền mình còn hơn chịu hai chữ “đầu Tây ».

Đó là lối sống anh dũng, là cái chết vẻ vang: “Thác mà trả non nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ / Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia…”. Đó là một quan niệm sống – chết tích cực, và đúng với đạo lý làm người và truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam chỉ như vậy mới có thề để lại danh thơm muôn thuở.

Nó đã trở thành động lực thôi thúc người nghĩa sĩ quên mình chiến đấu cho sự nghiệp cao cả và vinh quang. Cùng với quan niệm đó, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng nên bực tượng đài sừng sững về người nông dân nghĩa sĩ còn lại mãi với thời gian.