Mở bài
Rừng xà nu là một tác phẩm văn xuôi hiện đại nổi bật của Nguyễn Trung Thành. Tác phẩm đã tái hiện rõ nét vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng của núi rừng và con người Tây Nguyên. Một trong những nhân vật mang đậm chất sử thi được tác giả khai thác khéo léo đó chính là cụ Mết. Cụ Mết chính là đại diện của tinh thần dân tộc, là lịch sử, là người giữ lửa và truyền ngọn lửa yêu nước cho các thế hệ trẻ sau này. Phân tích nhân vật cụ Mết ta sẽ thấy được những vẻ đẹp toát ra từ con người của núi rừng Tây Nguyên này.
Thân bài
Có rất nhiều bài phân tích về tác phẩm rừng xà nu, về nhân vật Tnú, nhưng phân tích nhân vật cụ Mết thì chưa có nhiều. Đây là tuyến nhân vật phụ nhưng lại đóng vai trò quan trọng trong kết cấu truyện. Cụ Mết bằng tài hoa nghệ thuật của tác giả đã trở thành người tạo nên mạch nguồn cho câu truyện.
- Luận điểm 1: Phân tích nhân vật cụ Mết về đặc điểm ngoại hình
Ngay khi vừa xuất hiện, cụ Mết đã để lại ấn tượng mạnh về một già làng có dáng dấp của anh hùng sử thi Tây Nguyên “Một bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy vai anh như một cái kìm sắt”. Dường như sức mạnh của cụ Mết qua ngòi bút của Nguyễn Trung Thành chẳng khác nào sức mạnh của một trai tráng mười chín, đôi mươi.
Cụ Mết trước mặt Tnú là “ông cụ vẫn quắc thước như xưa, râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt vẫn sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng. Ông ở trần, ngực căng như một cây xà nu lớn”. Nếu không biết đang miêu tả cụ Mết thì qua những từ ngữ thế này, người ta sẽ nghĩ tác giả đang miêu tả về một vị anh hùng nào đó. Chỉ bằng những câu văn ngắn ngủi, tác giả đã khắc họa hình ảnh một vị già làng vững chãi, tràn trề uy lực tinh thần, có sức thuyết phục mạnh mẽ.
Không chỉ qua những từ ngữ miêu tả, qua cách cụ Mết nói chuyện đã đủ để người ta thấy được sự uy nghiêm của cụ: “lúc ông cụ Mết nói, mọi người đều im mặt. Ông nói như ra lệnh, sáu mươi tuổi rồi mà tiếng nói vẫn ồ ồ, dội vang trong lồng ngực”. Giọng nói của cụ Mết như lời phán truyền, tiếng nói ấy lúc “vang” khi lại “trầm và nặng” như tiếng vọng của Tây Nguyên đại ngàn. Cụ Mết chính là hình ảnh đại diện cho những người chỉ huy, người đứng đầu.
- Luận điểm 2: Vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của cụ
Không chỉ mang vẻ ngoài của một người anh hùng trong sử thi Tây Nguyên, cụ Mết còn được tác giả khắc họa bằng hình ảnh yêu quê hương, đất nước vô bờ. Ngay khi Tnú đi xa về, cụ Mết “thân hành dẫn anh ra tới máng nước đầu làng”. Chẳng đơn giản chỉ để cho Tnú tắm rửa sạch sẽ, mà thông qua việc ấy, cụ Mết muốn nhắc nhở những người con xa quê trân trọng cội nguồn quê hương.
Trong mỗi hành động, lời nói của cụ Mết đều tỏa ra lòng yêu quê hương đất nước. Cụ luôn tự hào về quê hương mình “gạo người Strá mình làm ra ngon nhất rừng núi này”. Với cụ Mết hai tiếng quê hương thiêng liêng và vô cùng thân thuộc. Quê hương với cụ chính là dòng nước trong nguồn, là hạt gạo trên nương đến những cánh rừng xà nu bạt ngàn. Mọi thứ thuộc về quê hương đều nằm trong tim cụ bằng một cách tự hào nhất.
Chính lòng yêu quê hương như thế, cụ Mết luôn dặn dò con cháu “cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Điều đó cho thấy sự tin yêu tuyệt đối của cụ dành cho Đảng, cho Bác Hồ.
Cụ Mết còn là một người luôn thương yêu dân làng. Có muối, ông chẳng nêm vào canh, ông chia đều cho các bếp trong làng, để dành cho người đau ốm “ông chia cho mỗi người mấy hạt”. Rồi tới khi nhắc tới mười ngón tay của Tnú “ông cụ đặt chén cơm xuống giận dữ”. Đó chính là nỗi đau đớn, xót thương cụ Mết dành cho Tnú.
Và khi kể cho dân làng nghe câu chuyện của vợ con Tnú, cụ Mết vẫn không kìm nổi sự tiếc thương, đau đơn và xúc động. Cụ “vụng về trở bàn tay lau một giọt nước mắt”. Dường như, nỗi đau ấy cứ dai dẳng trong lòng cụ mặc dù câu chuyện đã xảy ra tới ba năm. Cụ Mết cũng là người chỉ huy, tìm hướng đi đúng đắn cho buôn làng. Cụ động viên dân làng lo dự trữ lương thực, bởi “đánh Mỹ phải đánh dài”. Chẳng ai nghĩ một ông cụ nơi đại ngàn Tây Nguyên ấy lại có thể có tầm nhìn xa trông rộng như vậy.
Ngay cả khi thấy cảnh Tnú và vợ con nó bị bắt trói, tra tấn dã man thì cụ cũng chỉ biết đau đớn đứng nhìn. Bởi “Tau cũng chỉ có hai bàn tay không. Tau không ra, tau quay đi vào rừng, đi tìm giáo mác,… Chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”. Trong tình huống ấy, cụ Mết vẫn giữ được lý trí để hiểu rằng, tay không đánh giặc sẽ chẳng có kết quả tốt đẹp gì.
Chính những điều cụ Mết đã làm càng làm cho dân làng thêm tin tưởng, tin tưởng vào một vị thủ lĩnh. Thế nên chỉ bằng những lưỡi mác, cây rựa, dân làng Xô-man đã đánh đuổi được bọn giặc tàn ác được trang bị súng ống. “Thằng Dục nằm dưới lưỡi mác của cụ Mết. Và thanh niên, tất cả thanh niên trong làng, mỗi người một cây rựa sáng loáng, những cây rựa mài bằng đá Tnú mang từ đỉnh núi Ngọc Linh về”. Nếu không có sự quyết đoán, lý trí của cụ Mết, rất có thể không cứu được Tnú và cả dân làng Xô-man đều chết trong biển lửa.
Qua lời kể “trầm và nặng” của cụ Mết, những điều mà làng Xô-man đã trải qua càng làm cho lớp trẻ thêm tự hào. Nó chính là lời phán truyền thiêng liêng và có sức nặng nhất cho các thế hệ con cháu làng Xô-man sau này.
Dường như lòng căm thù đã khắc sâu trong lòng của cụ Mết. Chỉ cần nhắc tới “thằng Dục” cụ trở nên nhanh nhẹn hơn. Và cụ biết rằng chỉ có tin vào Đảng mới có thể nhanh chóng đánh đuổi được những “thằng Dục” đang lăm le ở những buôn làng bên cạnh.
Lời kết
Hình tượng cụ Mết được Nguyễn Trung Thành xây dựng làm ta liên tưởng tới những già làng, trưởng bản trong những bản trường ca Tây Nguyên. Bằng bút pháp miêu tả đặc sắc, Nguyễn Trung Thành đã gây dựng nên hình ảnh một người có lòng yêu nước nồng nàn, thương dân bản và tin tưởng tuyệt đối vào Đảng, vào cách mạng. Bằng việc nhân cách hóa, cụ Mết dưới ngòi bút của Nguyễn Trung Thành trở nên sáng ngời hơn bao giờ hết.
Thông qua nhân vật cụ Mết, tác giả còn muốn ca ngợi lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu quật cường của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc chiến chống Mỹ cứu nước. Cụ Mết mãi mãi là người truyền tình yêu dân tộc tới thế hệ trẻ, là cây xà nu đại thụ của Tây Nguyên đại ngàn.