Mở bài phân tích nhân vật Tràng
Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn về nông thôn, hình tượng người nông dân lao động. “Vợ nhặt” được sáng tác năm 1955 đã khắc họa rất thành công bức tranh của nạn đói lịch sử năm 1945. Ban đầu, truyện ngắn này có tên ban đầu là Xóm ngụ cư. Truyện ngắn này đã chạm đến trái tim của người đọc, khi miêu tả chân thực về cuộc sống của người dân giữa nạn đói khủng khiếp, người chết như ngả rạ; vừa mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, ca ngợi tình yêu thương, vẻ đẹp người dân Việt Nam. Bên cạnh nhân vật bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân đã khắc họa chi tiết, chân thực, đặc sắc diễn biến tâm trạng Tràng – con trai bà cụ Tứ. Phân tích nhân vật Tràng cho thấy dù trong hoàn cảnh cùng quẫn, đói khát, nhưng Tràng – đại diện cho người lao động nghèo vẫn khao khát tình yêu, hạnh phúc gia đình và lấp lánh niềm tin vào cuộc sống, tương lai phía trước.
Thân bài phân tích nhân vật Tràng
- Luận điểm 1: Giới thiệu nhân vật Tràng
Tràng là một người lao động nghèo khổ, hơi bất bình thường, lại có ngoại hình xấu xí “hai con mắt nhỏ tí, gà gà”, “lưng to bè như lưng gấu”, “hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú, vừa dữ tợn… Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ”. Anh sống ở xóm ngụ cư nuôi mẹ già. Anh làm công việc đẩy xe bò mướn để kiếm sống. Dù nghèo khổ nhưng anh vô cùng tốt bụng, rất mực yêu trẻ con, thường hay vui đùa với những đứa trẻ trong xóm. Cuộc sống lao động vất vả nghèo khổ đã hằn lên ngoại hình của hắn: “Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàn vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về phía trước…”. Dưới ngòi bút tả thực của Kim Lân, nhân vật Tràng hiện lên thật đáng thương, tội nghiệp đến thắt lòng.
- Luận điểm 2: Tình huống “nhặt” được vợ của Tràng
Tâm trạng của Tràng biến đổi từ khi bỗng “nhặt” được vợ ngoài đường trong nạn đối 1945. Lần gặp đầu tiên, lời nói đùa của Tràng chứ không hề có tình ý với cô gái đẩy xe cùng mình. Bởi hắn chẳng bao giờ nghĩ một người nghèo như Tràng lại có vợ cả. Ấy thế mà “hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thúc vào dốc đỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc”. Hắn hò: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, ni!…”. Ấy thế mà, người phụ nữ ra đẩy ra với hắn. Hôm sau gặp lại, hắn đãi người đàn bà ấy 4 bát bánh đúc và đồng ý theo hắn về làm vợ. Tâm trạng lúc đó của Tràng lúc đó “khiến hắn cũng không ngờ, hắn chỉ tầm pha tầm phào đâu có hai bận thế mà thành vợ thành chồng”.
- Luận điểm 3: Diễn biến tâm trạng và hành động của Tràng khi “nhặt” vợ
Diễn biến tâm trạng của Tràng diễn ra từ bất ngờ cho đến vui vẻ, hạnh phúc, nhưng không thiếu nỗi lo về phía trước. Ở lần gặp 2, khi bị người đàn bà ấy mắng, Tràng toét miệng cười và mời ăn dù mình cũng không dư giả gì. Hành động đó chứng tỏ Tràng là một người nông dân hiền lành, tốt bụng, thương người.
Đặc biệt khi người đàn bà quyết định theo mình về thì Tràng bắt đầu thấy lo vì phải lo thêm miệng ăn giữa thời buổi người chết ngoài đường như ngả rạ. Nhưng rồi anh tặc lưỡi “chậc, kệ”. Hành động của Tràng không phải bồng bột, thiếu suy nghĩ, sĩ diện, mà đó là thái độ dung cảm, biết chấp nhận hoàn cảnh và cháy lên sự khát khao hạnh phúc, yêu thương con người cùng cảnh ngộ như mình.
Tràng nghiêm túc với quyết định của mình. Hắn đưa người “vợ nhặt” lên chợ tỉnh mua đồ. Tràng rất chu đáo và quan tâm đến người đàn bà của mình. Thế mới thấy, trong lúc nghèo đói như vậy, tình người thật đáng quý.
Kim Lân đã thành công khi miêu tả tâm trạng của Tràng ở nhiều cung bậc cảm xúc. Trên đường về, vẻ mặt Tràng “có cái gì phơn phởn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc” như thấy hãnh diện, hạnh phúc khi cưới được vợ giữa thời buổi khó khan như thế này. Vì tâm trạng vui, hãnh diện nên Tràng mua dầu về thắp để khi vợ về đến nhà thì căn nhà trở nên sáng sủa.
Khi về đến nhà, Tràng “xăm xăm” dọn dẹp sơ qua, “ngượng nghịu” thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của người đàn bà. Sự chân thật của Tràng đến mộc mạc, khiến người đọc càng thêm thương cảm và dành sự cảm mến dành cho nhân vật này. Tràng cũng có cảm giác lo lắng vì sợ người đàn bà này thấy gia cảnh của mình sẽ bỏ đi. Bản than Tràng thấy “sờ sợ” vì hạnh phúc có thể rời bỏ mình đi.
Diễn biến tâm trạng của Tràng được mô tả chân thực khi diễn tả sự sốt ruột đợi bà cụ Tứ về để thưa chuyện. Tràng hiểu rằng cần phải xin phép ý kiến của mẹ, sợ mẹ không đồng ý. Điều này chứng tỏ Tràng là người con biết lễ nghĩa. Đặc biệt, khi bà cụ Tứ về, Tràng thưa chuyện một cách nghiêm túc, trịnh trọng. Khi nhận được sự đồng ý của mẹ, long Tràng thở phào nhẹ nhõm.
- Luận điểm 4: Tâm trạng sáng hôm sau khi có vợ
Kim Lân đã miêu tả tâm trạng thay đổi của Tràng qua việc miêu tả cảnh vật vào sáng hôm sau khi có vợ. Tràng nhận thấy sự thay đổi kỳ lạ của ngôi nhà. “Bỗng vừa chợt nhận ra xung quanh mình cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng…”. Tràng cảm thấy hạnh phúc khi thấy người mẹ đang lúi húi giẫy cỏ, vợ quét lại cái sân… Khuôn mặt Tràng tươi tỉnh hẳn lên “hắn cười khì khì” dù đêm hôm qua hắn nghe thấy “tiếng khóc tỉ tê”, “diều quạ trên mấy cây ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”.
Từ những điều giản dị, nhưng tràn đầy hạnh phúc như vậy về cuộc sống gia đình, trong lòng Tràng bỗng dưng thấy rõ bổn phận, trách nhiệm trong gia đình để gây dựng tương lai. “Bỗng nhiên hắn cảm thấy hắn yêu thương, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một niềm vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bốn phận lo lắng cho vợ con sau này …”.
Bữa ăn sáng hôm đó tuy trông thật thảm hại, chỉ có lưng bát cháo và món “chè đặc biệt” – đó chỉ là miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ, cảm thấy nỗi xót xa tủi hờn nhưng Tràng vẫn có niềm tin về phía trước “lá cờ đỏ bay phất phới”.
Từ một người đàn ông thô kệch, Tràng đã thay đổi tâm trạng, suy nghĩ khi “nhặt” được vợ. Dường như Tràng quên đi những khó khăn hiện tại để có niềm tin sẽ vượt qua hướng đến tương lai tươi sáng hơn. Điều đó cho chúng ta thấy rõ, dù trong hoàn cảnh nào, đói kém có rình rập tính mạng, thì con người vẫn khao khát được yêu thương, được sống hạnh phúc của một gia đình, thậm chí còn bùng lên mãnh liệt hơn.
Kết bài phân tích nhân vật Tràng
Kim Lân đã rất thành công khi miêu tả chi tiết diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng. Ông đã đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo, để nhân vật tự bộc lộ tâm trạng, tính cách một cách rõ nét, chân thực. Với nghệ thuật dẫn truyện sáng tạo, ngôn ngữ bình dị, gần gũi, ông đã chạm đến tâm khảm của người đọc, giúp họ đồng cảm với nhân vật, đồng thời lấy đi nước mắt về cuộc sống cơ cực của người dân lao động Việt Nam trong hoàn cảnh nạn đói lịch sự năm 1945. Nhân vật Tràng dù nghèo khổ nhưng tràn đầy ấm áp, yêu thương, niềm hy vọng, lạc quan vào cuộc sống, vào sự thay đổi xã hội. Đó cũng chính là giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc mà nhà văn Kim Lân muốn gửi tới bạn đọc.