Tây tiến là một bài thơ nổi tiếng về hình ảnh người lính trong thời chiến. Vì thế đã có nhiều học giả từng phân tích khổ 1 Tây tiến. Bức tranh thiên nhiên trong Tây tiến được vẽ nên rõ nét. Qua đó ta thấy được sự quả cảm, hiên ngang và yêu đời của người lính Tây tiến.

Mở bài phân tích khổ 1 Tây tiến

Quang Dũng (1921 – 1988) là nghệ sĩ với phong cách thơ phóng khoáng, lãng mạn. Ông đã đóng góp cho kho tàng thơ ca Việt Nam không ít những tác phẩm nghệ thuật. Trong đó, Tây tiến là một trong những thành công vang dội nhất của ông. Bài thơ không chỉ là nỗi nhớ của một người lính với đồng đội, đồng bào, mà nó còn là một khúc tráng ca về đoàn quân Tây tiến anh hùng.

Có lẽ tất cả tinh hoa của bài thơ được hội thụ trong khổ thơ đầu tiên. Khổ đầu bài thơ gồm 14 câu thơ đã được tác giả dựng lên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc. Và đâu đó là hình ảnh hiên ngang của những người lính trong đoàn quân “không mọc tóc”.

Phân tích khổ 1 Tây Tiến
Khổ 1 Tây Tiến thể hiện sự nhung nhớ khôn nguôi của tác giả

Thân bài phân tích khổ 1 Tây tiến

Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi

Mở đầu đoạn thơ bằng tiếng gọi “Tây Tiến ơi” quá đỗi thân thương. Tiếng gọi ấy cho ta thấy nỗi nhớ sâu sắc, cồn cào trong lòng tác giả. Có lẽ Tây Tiến không đơn giản là một đoàn quân, nó giống như tri kỷ, như người thân trong gia đình. Phải yêu, thương và nhớ Tây Tiến đến thế nào, tác giả mới có thể bật lên tiếng gọi thân thương như vậy.

Nỗi nhớ của tác giả ở đây không mơ hồ mà vô cùng cụ thể. Đó là “sông Mã”, là “Tây Tiến” và là “rừng núi”. Dường như mỗi bước chân người lính từng đi qua đều để lại nỗi nhớ trong lòng tác giả. Nỗi nhớ ấy phải khắc khoải thế nào mà trong một câu thơ tác giả điệp đến hai lần từ “nhớ”. Đó là nỗi “nhớ chơi vơi” vừa hư vừa thực, lại vừa tha thiết, mênh mang mà cũng đầy ám ảnh. Nỗi nhớ ấy mở ra không gian của tiềm thức và mở ra không gian trập trùng của rừng rúi cheo leo.

Để nỗi nhớ “chơi vơi” không còn mông lung, tác giả đã cụ thể dần trong những vần thơ tiếp. Đó là hình ảnh đoàn quân hành quân trong đêm với những nguy hiểm, khó khăn nhưng cũng không kém phần lãng mạn.

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Những địa danh như Sài Khao, Mường Lát là những nơi đoàn quân Tây Tiến đã đi qua được nhắc đến một cách trân trọng. Đó vốn là những vùng đất lạ lẫm với những người lính Tây Tiến, nhưng giờ đây nó lại trở thành một phần ký ức không thể nào quên.

Nỗi nhớ Tây Tiến đi sâu vào từng khung cảnh

Trong hai câu thơ ấy, Quang Dũng đã miêu tả nét hiện thực vô cùng rõ nét. Đó là những lớp sương mù dày đặc như nuốt chửng cả đoàn binh vốn đang mệt mỏi, rệu rã. Ấy thế nhưng dù thiên nhiên có gây cản trở cho bước chân thì những người lính vẫn thể hiện được tâm hồn trẻ trung, lạc quan, yêu đời. Quang Dũng đã lấy hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” như một nốt trầm giữa không gian vốn mênh mông ấy. Đây là hình ảnh đẹp giàu ý nghĩa. “Hoa” ở đây có lẽ là những ánh đuốc lung linh của đoàn quân. Nhưng đó cũng có thể là hình ảnh ẩn dụ mà Quang Dũng muốn miêu tả những chiến sĩ của đoàn quân Tây Tiến. Dù muôn trùng cách trở, đoàn quân ấy vẫn hành quân trong “đêm hơi” đầy huyền ảo như những bông hoa rừng ngát hương thơm và tỏa sắc. Thế mới thấy Quang Dũng đã tinh tế thế nào khi chỉ có hai câu thơ đã khiến người ta phải liên tưởng biết bao điều.

Và ký ức của người lính Tây Tiến không thể không nhắc đến đặc điểm địa hình hiểm trở của đồi núi phía Tây Bắc tổ quốc.

Dốc lên khúc khủy dốc thăm thẳm,

Heo hút cồn mây súng ngửi trời,

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Trong bốn câu thơ này, Quang Dũng đã sử dụng một loạt từ láy tượng hình như “khúc khủy”, “thăm thẳm”, “heo hút” để miêu tả sự hiểm trở của địa hình nơi chiến sĩ Tây Tiến đi qua. Cùng với nhịp thơ 4/2 và nhiều thanh trắc càng gợi nên sự vất vả, nhọc nhằn của những chiến sĩ.

Bằng những từ ngữ ấy, tác giả đã gợi nên được sự gập ghềnh, hiểm trở. Những con dốc mà đoàn quân phải vượt qua như đang làm khó cho những người lính lúc lên lúc xuống, với vực thẳm kế bên. Chỉ cần sơ sẩy chút thôi là người lính có thể bỏ mạng ngay được. Không chỉ có vậy, đỉnh những con dốc còn cao chót vót tới mức người lính cảm tưởng như mũi súng có thể chạm mây “súng ngửi trời”.

Dường như trong sự khó khăn, nguy hiểm như vậy nhưng những người lính vẫn giữ được nét tinh nghịch. Đó có lẽ là cách để người lính quên đi những nguy hiểm trước mắt. Quang Dũng đã khéo léo dùng phép đối “ngàn thước lên cao – ngàn thước xuống” để nhấn mạnh sự hiểm trở của thiên nhiên. Từng ấy câu chữ thôi nhưng tác giả đã vẽ nên bức tranh núi sông trập trùng, hiểm trở.

Giữa những dốc đèo đứt nối, trập trùng ấy, Quang Dũng vẫn mang đến cho người đọc một cảm giác nhẹ nhàng. Đó là những phút giây nghỉ ngơi hiếm hoi của người lính để có thể nhận ra thấp thoáng xa xa “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Có lẽ lúc này những người lính đang đứng trên đỉnh núi cao, nghỉ ngơi và phóng tầm mắt ngắm nhìn khung cảnh bình yên của núi rừng. Xa xa là lớp mưa rừng giăng mờ nơi bản làng Pha Luông.

Giữa những hiểm nguy ấy, chắc chắn không thể tránh khỏi sự mất mát, đau thương. Ấy thế nhưng Quang Dũng nhắc tới mất mát nhà như không:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa,

Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Nhắc đến cái chết nhưng tác giả không dùng những từ ngữ thể hiện nỗi bi ai. Thay vào đó, tác giả làm người ta hình dung ra người lính ngạo nghễ, uy nghiêm. Người lính ấy chỉ là “không bước nữa” bởi đã quá mệt với những bước chân dãi dầu. Thế nên, anh chọn dừng lại để đồng đội bước tiếp, viết tiếp ước mơ, hoài bão của mình. Cái chết đối với những người lính Tây Tiến giờ đây chỉ như một giấc ngủ dài. Vậy nên họ chấp nhận cái chết một cách nhẹ nhàng “gục lên súng mũ”. Hình ảnh ấy mang sự xót xa nhưng cũng thật hào hùng.

Rừng thiêng nước độc nơi miền Tây Bắc không chỉ thử thách người lính bằng những thác cheo leo, vực sâu thẳm. Mà dường như mỗi bước chân của người lính đều có hiểm nguy:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét,

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Ở hai câu thơ này, tác giả tiếp tục sử dụng những từ láy chỉ biên độ thời gian “chiều chiều”, “đêm đêm”. Cùng với những tiếng “thác gầm thét”, “cọp trêu người” càng làm cho vẻ bí hiểm, dữ dội của thiên nhiên tăng thêm nhiều bậc. Ở đây, cái chết luôn luôn rình rập đe dọa người lính mọi lúc, mọi nước. Những nguy hiểm ấy trải rộng từ không gian và còn kéo dài theo thời gian. Thiên nhiên đầy nguy hiểm là vậy, nhưng tác giả vẫn có những cảm nhận thật lãng mạn.

Mùi hương nếp xôi trở thành mùi vị của gia đình, của sự đoàn kết quân dân

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Giữa rừng núi mênh mông bát ngát ấy, người lính Tây Tiến vẫn cảm nhận được sự ấm áp nghĩa tình quân dân từ hương cơm mới của các cô gái Thái. “Nhớ ôi” thể hiện nỗi nhớ tha thiết, ám ảnh giống như “Tây Tiến ơi” ở đầu đoạn. Dường như những hồi ưởng về giây phút đoàn quân được quây quần quanh nồi xơm thơm lừng càng khiến tác giả nhói lòng. Đó là những phút giây ấm áp ngắn ngủi nhưng có tác động diệu kỳ. Nó làm cho tinh thần của người lính phấn chấn để vượt qua những hiểm nguy một cách dễ dàng.

Ở đây, tác giả sử dụng “mùa em” để thể hiện mối tình quân dân gắn kết keo sơn. Dường như tình cảm của những cô gái Thái ở bản làng Mai Châu ấy đã ghi sâu vào tâm trí của người lính Tây Tiến. Nhờ đó, mang lại cho đoạn thơ vẻ đẹp lãng mạn khó quên.

Lời kết

Khổ 1 bài thơ Tây Tiến là sự kết hợp giữa hiện thực đời thường với những điều tinh tế, lãng mãn. Nhờ đó chân dung tập thể những người lính Tây Tiến trở nên anh dũng, hào hoa hơn. Với ngôn ngữ giàu chất tạo hình, Quang Dũng đã vẽ nên bức tranh sinh động có cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Phân tích khổ 1 Tây Tiến ta cảm nhận rõ nét sự gắn bó sâu sắc của tác giả với những vùng đất đoàn quân Tây Tiến đã đi qua. Đó là một phần thanh xuân, là tuổi trẻ của nhà thơ và những đồng đội.  Thế nên, khi nhắc đến Tây Tiến sẽ là những hình ảnh đầy tự hào.