Sau khi đánh đuổi giặc Minh ra khỏi đất nước, Nguyễn Trãi viết bản Bình Ngô Đại Cáo để tuyên bố độc lập dân tộc. 15 vạn tân binh của giặc ngoại xâm bị đánh tan tành, được lãnh đạo bởi tướng giỏi Lê Lợi. Giặc Minh chấp nhận rút khỏi đất nước, Lê Lợi lên làm vua, hòa bình được lập lại. Tác phẩm tổng hợp hết tội ác của giặc minh, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và tuyên bố độc lập. Cùng phân tích Đại Cáo Bình Ngô để thấy sự thông minh, anh hùng của Lê Lợi và những việc làm tàn ác mà giặc Minh gây ra.
Phân tích chi tiết Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi
Bình Ngô Đại Cáo là một tác phẩm có giá trị cao, được xem như bản tuyên ngôn độc lập dân tộc. Tác phẩm là áng thiên cổ hùng văn, mang ý nghĩa đặc biệt nhất. Với cách lập luận chặt chẽ, Nguyễn Trãi đã tố cáo tội ác của giặc thật rõ nét, có cả dẫn chứng cụ thể. Qua phân tích Bình Ngô Đại Cáo chúng ta cũng có cái nhìn rõ hơn về tình yêu dân tộc, đoàn kết của người dân Đại Việt. Chính cuộc khởi nghĩa Lam Sơn với sự thông minh, mưu trí của Lê Lợi cùng các tướng giỏi đã làm nên thắng lợi lịch sử.
“Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét.
Chứng cứ còn ghi”
Đoạn thơ đầu tiên khẳng định tư tưởng, quan điểm, chân lý về tự do con người, chủ quyền dân tộc. Mở đầu bài cáo, tác giả khẳng định nền văn hiến, đất nước Đại Việt vốn tồn tại từ lâu. Tác giả dùng những lời lẽ đạo lý, nhân nghĩa, tất cả đều phụ thuộc vào dân. “Nhân nghĩa” mà Nguyễn Trãi nói đến là tình thân mến, quan hệ giữa mọi người với nhau. Để con người bày tỏ được yêu thương, tình thân thì họ phải cần được tự do, hòa bình. Trước đó dân vẫn phải lo cơm áo, gạo tiền, giặc đô hộ, tàn phá nặng nề. Tuy nhiên, tác giả cũng khẳng định, muốn “yên dân” thì phải “trừ bạo”.
Cùng phân tích Đại Cáo Bình Ngô để đồng cảm với nỗi đau, mất mát mà dân phải chịu. Tư tưởng của Nguyễn Trãi là lấy dân làm gốc, là chỗ dựa chính để đất nước tồn tại. Do đó, dân phải được có một cuộc sống yên ổn, tạo kinh tế, xây dựng đời sống hạnh phúc, no ấm. Ở đây, “nhân nghĩa” là phải giữ đất nước được tự do, không có giặc ngoại xâm lược. Dân tộc ta có quyền chiến đấu, nổi lên giành lại độc lập, đất nước Đại Việt luôn tồn tại. Nguyễn Trãi nêu rõ “như nước Đại Việt ta từ trước”, khẳng định đây là đất nước đã tồn lại từ lâu. Nền văn hiến đã được xây dựng, rõ ràng chúng ta bị giặc xâm chiếm, đô hộ lãnh thổ.
Tội ác của giặc Minh trên đất nước ta là phân chia bờ cõi, áp đặt thủ tục truyền thống với từng vùng miền khác nhau. Chúng làm cho dân ta mất đi sự đoàn kết, gắn bó, giảm thấp khả năng thống nhất dân tộc. Nguyễn Trãi kể về các vị anh hùng từ trước “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần” đã nhiều lần xây dựng nền độc lập cho dân tộc. Chúng ta cũng xưng đế tương tự như Trung Quốc “Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên”, tác giả so sánh ngang hàng với nhau. Tác giả cũng nhấn mạnh lòng tham, bất tài của giặc khi “lưu cung tham công nên thất bại”. Nguyễn Trãi truyền tải ý nghĩa rằng, bất kỳ cái xấu, cái các nào cũng sẽ bị diệt vong, dân tộc ta đấu tranh vì chính nghĩa.
“Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
Ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,
Khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng,
Máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất,
Chân tay nào phục dịch cho vừa ?
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha;”
Đoạn tiếp theo tác giả vạch trần, tố cáo hành động ác độc của giặc ngoại với dân tộc ta. Tác giả miêu tả thật chi tiết, “bọn gian tà” sẵn sàng bán nước, trao quyền tự do dân ta cho giặc. Từ đó, chúng sẵn sàng “nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn”, dân ta bị hành hạ đến tận xương tủy. Chúng gọi con người Đại Việt là “dân đen”, không còn là con người nữa. Thậm chí, chúng sẵn sàng “vùi con đỏ” không gớm tay, sinh mạng của người dân ta chúng chỉ xem là rác rơm. Tất cả dân ta trở thành nạn nhân, dưới sự tàn ác, đô hộ của giặc.
Chúng hủy hoại môi trường sống, đặt ra vô số thứ thuế vô lý, dân ta bị giết không hề gớm tay. Giặc Minh bày “đủ muôn nghìn kế” để lừa lọc, hại dân ta không còn đường nào sống sót. Chúng không chỉ cướp đi ruộng đất, tài sản, nhà cửa mà còn bóc lột sức lao động dân ta. Người dân được tác giả dùng từ “bị ép” lên rừng, xuống biển để mò ngọc, đãi cát tìm vàng. Một công việc không thể ngờ là con người có thể làm, và kết quả hầu như thật mong manh, trong khi họ đói khát vô cùng.
Chỉ khi phân tích Đại Cáo Bình Ngô ta với hiểu rõ hơn về tính dân tộc, đồng lòng chống giặc của dân ta. Nguyễn Trãi mô tả tội ác của giặc Minh là vô hạn, “trúc Nam Sơn không ghi hết tội”. “Nước Đông Hải không rửa sạch mùi” tội ác, vấy bẩn mà chúng đã làm nên. Hai câu thơ tượng hình, kể đến vô số tội ác, không thể nào dung tha. Dân ta dày lòng căm hận, phẫn uất nhưng yếu sức, kém thế. Thậm chí, những việc làm mà chúng đã gây ra với dân ta, trời đất cũng không thể nào dung tha được.
“Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước,
Vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền,
Thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng,
Mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng,
Vội vã hơn cứu người chết đói.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà,
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.”
Nguyễn Trãi ca ngợi người anh hùng vĩ đại, lãnh đạo khởi nghĩa Lam Sơn là Lê Lợi. Ông đã rất khó khăn, trăn trở để có thể lên kế hoạch đấu tranh, đuổi giặc ra khỏi đất nước. Lê Lợi trong thời gian đầu khởi nghĩa đầy khó khăn, trở lại, gian khổ, nhưng quyết không lùi bước. Ông phải “chốn hoang dã nương mình”, không nhà, người thân, chui lủi khắp nơi. Lê Lợi là thủ lĩnh của một đội quân, nhưng ông đơn giản, gần gũi như một người bình thường. Nguyễn Trãi khẳng định rằng, Lê Lợi là một tướng giỏi. Ông có lòng căm thù giặc sâu sắc, cũng như mọi người dân tại đất nước Đại Việt thời bấy giờ.
Lê Lợi tuyên bố “Ngẫm thù lớn há đội trời chung”, nhất định phải đẩy giặc ngoại ra khỏi đất nước. Ông phải lên kế hoạch, xây dựng chiến lược rất nhiều năm, hiểu rõ điểm yếu của địch, gặp thời cơ tốt mới đứng lên khởi nghĩa. Lê lợi “nếm mật nằm gai” trải qua biết bao nhiêu sóng gió, thậm chí là có thể mất mạng. Ông là một người yêu nước, luôn canh cánh trong lòng ước nguyện giải phóng dân tộc. Qua hình tượng Lê Lợi, tác giả muốn nói lên tính chất của cuộc khởi nghĩa, kèm theo sự đoàn kết của nhân dân. Rõ ràng hơn, đội quân khởi nghĩa của ta yếu thế hơn rất nhiều so với giặc, tuy nhiên chúng ta đã thắng trong vinh quang.
“Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy,
Mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh
Mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong,
Giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất,
Ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn
Nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính
Lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người,
Gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc,
Để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh Mùi tháng chín,
Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười,
Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm,
Chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường
Tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chặn ở Lê Hoa,
Quân Vân Nam nghi ngờ, khiếp vía mà vỡ mật
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm,
Quân Mộc Thạnh xéo lên nhau, chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông,
Nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi,
Cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù,
Như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại,
Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
Về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Dân ta chủ chốt là “đem đại nghĩa để thắng hung tàn” khẳng định chiến thắng chúng ta hoàn toàn xứng đáng. Tác giả nên lên sự hèn nhát của giặc bằng “Thần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía”, thể hiện sự yếu kém, sợ chết của bọn giặc. “Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng”, dân ta đại thắng trong vinh quang, nể phục.
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
Cuối cùng, Nguyễn Trãi tuyên bố độc lập dân tộc, tự do dân chủ cho dân tộc Đại Việt. Ông khẳng định “Xã tắc từ đây vững bền”, “Giang sơn từ đây đổi mới” không còn bóng dáng giặc trên đất nước ta nữa. Thông báo đến tất cả mọi người đều biết để cùng chung vui, chia sẻ hạnh phúc độc lập.
Kết bài
Phân tích Đại Cáo Bình Ngô để thấu hiểu nỗi cực khổ, đàn áp, đói kém của dân ta dưới thời Minh. Chính Lê Lợi đã mở ra một đường lối, cuộc sống mới tốt đẹp hơn, chủ quyền dân tộc cho mọi người. Nguyễn Trãi đã viết nên Bình Ngô Đại Cáo như một bản hùng ca, tuyên bố độc lập dân tộc.