Dàn ý phân tích
Mở bài
– Dàn ý phân tích bài thơ việt bắc – Giới thiệu về tác giả: Tố Hữu là một trong những nhà hoạt động cách mạng, nhà thơ lớn của đất nước, thơ ông trưởng thành trong cách mạng. Ông từng bị thực dân Pháp bắt giam nhưng vượt ngục và tiếp tục hoạt động cách mạng. Về sau, ông trở thành nhà lãnh đạo tư tưởng, văn nghệ của Đảng và nhà nước, đồng thời cũng trở thành nhà thơ lớn của dân tộc.
– Giới thiệu tác phẩm Việt Bắc – Ông để lại cho thế hệ sau nhiều bài thơ có giá trị, một trong những tác phẩm ấy phải kể đến Việt Bắc. Tác phẩm được viết khi cơ quan đầu não của Đảng trở về Hà Nội. Bài thơ viết khi chia tay đồng bào Việt Bắc với tình cảm lưu luyến, gắn bó với con người mảnh đất này.
Thân bài
-
Luận điểm 1: Giới thiệu về hoàn cảnh sáng tác và bố cục bài thơ
– Hoàn cảnh sáng tác: Việt Bắc được sáng tác trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Đó là khi hiệp định Giơ ne vơ Đông dương được kí kết, hòa bình lập lại, miền bắc được giải phóng. Đất nước bắt đầu bước sang một trong mới, một giai đoạn mới của cách mạng và cơ quan trung ương của Đảng – chính phủ phải rời chiến khu việt bắc về Hà Nội. Trước cảnh chia tay lưu luyến, cảm xúc dạt dào ấy Tố Hữu đã viết lên bài thơ Việt Bắc.
– Bố cục bài thơ: Bài thơ được viết với các phân đoạn là cảnh đầu chia tay lưu luyến giữa cán bộ và con người Việt Bắc, các khổ còn lại là lời người ra đi nhắc lại những kỉ niệm gắn bó cùng Việt Bắc.
-
Luận điểm 2: Lời người ở lại
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
– Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
– 20 câu thơ đầu là lời người ở lại dành cho người về xuôi
– Tác giả sử dụng điệp trúc mình – ta cho thấy sự gắn bó, thân thiết như một gia đình khiến cuộc chia li càng trở nên quyến luyến. Cách xưng hô này làm ta nhớ đến điệu hát Giao duyên khiến cho câu thơ trở nên mềm mại, sâu lắng. Bởi vậy, nói thơ của Tố Hữu vừa có yếu tố chính trị vừa có yếu tố lãng mạn quả không sai.
– Ngay câu thơ đầu tiên, tác giả đặt câu hỏi tu từ để càng khẳng định nỗi nhớ ngườ đi xa và buổi chia tay bịn rịn: “Mình về mình có nhớ ta? Toàn bộ bốn câu thơ đầu tiên đều là lời ướm hỏi, khơi gợi những kỉ niệm về mười năm năm mặn nồng, về thiên nhiên việt bắc nghĩa tình.
– 4 câu thơ tiếp theo là nỗi lòng lưu luyến của cả người đi và người ở qua từ ngữ “da diết” “bâng khuâng” “bồn chồn” . Tác giả không nói trực tiếp đâu là người về xuôi, đâu là người ở lại mà sử dụng hình ảnh “áo chàm” để giúp người đọc nhận biết và nghe gần gũi thân thương. Áo chàm chính là đồng bào Việt Bắc, cầm tay người về xuôi mà lưu luyến khôn nguôi.
– Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay… Sự lưu luyến, kỉ niệm, nỗi nhớ nhiều đến nỗi không thể nói lên lời. Buổi chia ly ấy không đủ thời gian để diễn tả. Chỉ ánh mắt nhìn nhau bịn rịn mà đã thấy nhớ nhung khôn xiết.
– 12 câu thơ tiếp theo đều là nói đến nỗi nhớ, những kỉ niệm đã qua ngọt ngào, cay đắng, nghĩa tình
+ Đó là nỗi nhớ về thiên nhiên núi rừng việt bắc. Đó là mưa nguồn, là suối lũ, là mây mù, là trám bùi, là măng mai… Tất cả như quyện thành nỗi nhớ da diết, ngay cả thiên nhiên cũng nhớ, cũng lưu luyến.
+ Nỗi nhớ về những con người, ân tình trong gian khổ: “miếng cơm chấm muối” nhưng vẫn đậm đà lòng son, chia ngọt sẻ bùi, cùng trải qua bao gian khó mới biết chân tình là đây.
+ Nhớ đến quãng thời gian kháng chiến , hoạt động cách mạng, kháng Nhật, Việt Minh, Tân Trào, Hồng Thái… đều là những quãng thời gian tuy vất vả mà đáng nhớ, đều là những địa danh nổi tiếng trong kháng chiến bộ đội và dân ta cùng trải qa.
-
Luận điểm 3: Lời người ra đi
Dàn ý phân tích bài thơ việt bắc – Người ra đi ở đây chính là các chiến sĩ cách mạng trở về xuôi để tiếp tục công việc. Không chỉ người ở lại bịn rịn, lưu luyến, nhớ đến những kỉ niệm đã cùng nhau trải qua, mà các đông chí cách mạng cũng thế, nỗi nhớ cũng da diết, kỉ niệm cũng hiện về như mới qua đây thôi.
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…
– 4 câu thơ trên khẳng định nỗi nhớ với người ở lại không hề thua kém. Đồng bào Việt Bắc nhớ chiến sĩ cách mạng thế nào thì các đồng chí cách mạng cũng nhớ đồng bào bấy nhiêu. Đối đáp lại với đồng bào Việt Bắc với cách xưng hô Ta – mình cho thấy tình cảm sâu đậm, gắn bó, coi nhau như tình thân, bịn rịn, da diết và sử dụng đối xứng: “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu… cho thấy tấm lòng thương nhớ không hề thua kém.
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
– Nỗi nhớ người đi còn ở một bậc cao hơn đó là được ví như nỗi nhớ người yêu. Đây là thứ tình cảm sâu nặng, nỗi nhớ da diết cồn cào. 6 câu thơ trên còn nói đến hình ảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc đẹp và gần gũi vô cùng, đó là trăng, nắng chiều, là bản khói cùng sương, là người thương, rừng nứa bờ tre… Tất cả đều trở nên thân thương quá đỗi.
– Thiên nhiên còn hiện lên trong mắt người chiến sĩ như một bức tranh tứ bình tuyệt đẹp:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
+ Bằng bút pháp nghệ thuật tả cảnh, tố hữu đã vẽ lên một bức tranh 4 mùa hoàn hảo với đủ màu săc hài hòa, quyện vào nhau. Các gam màu vừa chói chang vừa dịu dàng bổ trợ cho nhau tạo nên bức tranh sơn mài 4 mùa tuyệt đẹp.
– Nhớ đến con người Việt Bắc
+ Những con người cùng trải qua gian khó, vất vả nhưng luôn chia ngọt sẻ bùi, cùng nhau vượt qua mọi hoạn nạn gian nan:
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
+ Nhớ hình ảnh người mẹ đẹp giản dị, địu con trên rẫy bẻ từng bắp ngô hay hình ảnh cô em gái hái măng. Những hình ảnh lao động bình dị ấy đã in sâu trong trí nhớ người ra đi.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
….
Nhớ cô em gái hái măng một mình
+ Bên cạnh đó tác giả cũng nhớ đến cảnh sinh hoạt của quân và dân ta, đó là những lớp học I tờ, giờ liên hoan, ca vang núi đèo
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…
>> Nỗi nhớ rất cụ thể, rất rõ ràng, tác giả nhớ về thiên nhiên, về con người, về cuộc sống, sinh hoạt nơi đây chi tiết từng việc một. Có thể cho thấy tác giả rất yêu thương mảnh đất này nên kỉ niệm gắn bó không thể nào quên.
– Kỉ niệm đánh giặc
+ Hình ảnh giặc đến, giặc lùng cho thấy chiến tranh vô cùng khốc liệt,nhưng quân và dân ta vẫn không hề run sợ, trước kẻ thù ta vẫn hùng dũng bước đi, sẵn sàng xông pha ra trận chiến, bởi vì ta có lí tưởng cách mạng soi đường:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
+ Thiên nhiên cũng cùng quân và dân ta đánh giặc, cho thấy sự đồng lòng, đoàn kết từ trong ra ngoài. Tác giả nhân hóa thiên nhiên để khẳng định tân thần đoàn kết của dân tộc tạo nên một sức mạnh khổng lồ khiến giặc không thể ngờ tới. “ Núi giăng thành luỹ sắt dày/ Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù/ Mênh mông bốn mặt sương mù/ Đất trời ta cả chiến khu một lòng.”
+ Bô độ và dân quân của ta luôn trong khí thế hừng hực, hào hùng:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
>> Tố hữu sử những câu thơ rất mạnh như rầm rập, điệp điệp, trùng trùng, nát đá, lửa bay… cho thấy một sức mạnh phi thường không có gì cản nổi. Một ý chí sắt đá khiến kẻ thù run sợ.
– Nhớ đến chiến công thắng trận
+ Ngoài những gian khó, những vất vả, hi sinh thì chiến công thắng trận không thể nào quên,đó là niềm vui khôn tả, là hạnh phúc, trái ngọt mà quân và dân ta gặt hái được:
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Tin vui từ miền núi đến miền xuôi, cả nước cùng vui theo tin thắng trận.
Luận điểm 4: Niềm tự hào , niềm tin gửi gắm Việt Bắc cách mạng ở 16 câu thơ cuối
+ Đó là hình ảnh của nơi nguồn cuội cách mạng – Việt Bắc, nơi ấy có Bác Hồ, trung ương Đảng, nơi ấy đã làm nên lịch sử với ngọn cờ đỏ thắm, rực rỡ sao vàng:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
+ Hình ảnh Bác dưới miêu tả của Tố hữu vừa giản dị, vừa sáng suốt, bình dị đẹp tươi lạ thường.
+ Khổ thơ cuối cũng nói về niềm tin vào sức mạnh của Đảng, khả năng lãnh đạo của Dảng, niềm tự hào vào những chiến công Việt Bắc:
Lòng ta ơn Đảng đời đời
Ngược xuôi, đôi mặt một lời song song.
Ngàn năm xưa, nước non Hồng
Còn đây, ơn Đảng nối dòng dài lâu
Ngàn năm non nước mai sau
Đời đời ơn Đảng càng sâu càng nồng.
Cầm tay nhau hát vui chung
Hôm sau mình nhé, hát cùng Thủ đô.
Kết bài
– Tóm tắt lại nội dung bài thơ: Bài thơ là bản tình ca về cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc, là nỗi nhớ da diết của kẻ ở, người đi. Là những kỉ niệm thân thiết, cuộc sống đời thường và hành trình kháng chiến tuy gian khó nhưng đượm nghĩa tình.
– Nghệ thuật bài thơ: Tả giả sử dụng thuật đối đáp, kể chuyện, tả cảnh, giọng thơ trữ tình nhẹ nhàng, lời thơ đối đạm trao duyên nghĩa tình.
– Nếu cảm nghĩ của em: Qua bài thơ ta càng thấy thêm yêu Việt Bắc, yêu những con người giản dị mà nghĩa tình nơi đây.
>> Xem thêm: Phân tích bài thơ viêt Bắc của Tố Hữu hay xuất sắc