Soạn Câu ghép (tiếp theo) trang 123-126 SGK Ngữ văn lớp 8 tập 1.
I. Quan hệ ý nghĩa giữa các vế câu – Soạn Câu ghép (tiếp theo) trang 123-126 SGK Ngữ văn lớp 8 tập 1
Câu 1 – Soạn Câu ghép (tiếp theo) trang 123 SGK Ngữ Văn 8 Tập 1
Quan hệ ý nghĩa giữa các vế câu trong câu ghép sau đây là quan hệ gì? Trong mối quan hệ đó, mỗi vế câu biểu thị ý nghĩa gì?
Có lẽ tiếng Việt của chúng ta đẹp bởi vì tâm hồn của người Việt Nam ta rất đẹp, bởi vì đời sống, cuộc đấu tranh của nhân dân ta từ trước tới nay là cao quý, là vĩ đại, nghĩa là rất đẹp.
(Phạm Văn Đồng, Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt)
Trả lời:
– Quan hệ ý nghĩa giữa các vế câu trong câu ghép trên là quan hệ nguyên nhân – kết quả.
– Trong đó:
+ Vế câu “có lẽ” là giả thuyết về kết quả: tiếng Việt của chúng ta đẹp.
+ Từ nối “bởi vì” nêu nguyên nhân: vì tâm hồn người Việt Nam ta rất đẹp, vì cuộc đấu tranh của ta từ trước tới nay cao quý…
Câu 2 –
Soạn Câu ghép (tiếp theo) trang 123 SGK Ngữ Văn 8 Tập 1
Dựa vào kiến thức đã học ở lớp dưới, hãy nêu thêm quan hệ ý nghĩa có thể có giữa các vế câu. Cho ví dụ minh họa.
Trả lời:
– Quan hệ tương phản:
Ví dụ: Tuy hôm nay trời mưa nhưng tôi vẫn phải đi học
– Quan hệ thời gian nối tiếp:
Tôi bước vào cổng trường, mẹ nhìn theo tôi một lát rồi cũng quay xe trở về nhà.
– Quan hệ điều kiện:
Ví dụ: Hễ cứ bị mắc mưa là tôi lại bị ốm.
– Quan hệ bổ sung:
Ví dụ: Cô giáo tôi không những giỏi mà còn rất xinh đẹp
– Quan hệ tương phản:
Ví dụ: Hai chị em Mai, người thì cao, còn kia kia lại thấp.
II. LUYỆN TẬP – Soạn Câu ghép (tiếp theo) trang 123-126 SGK Ngữ văn lớp 8 tập 1
Câu 1 – trang 124 SGK Ngữ Văn 8 Tập 1
Xác định quan hệ ý nghĩa giữa các vế câu trong những câu ghép dưới đây và cho biết mỗi vế câu biểu thị ý nghĩa gì trong mối quan hệ ấy.
a) Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học
(Thanh Tịnh, Tôi đi học)
b) Nếu trong pho lịch sử loài người xoá các thi nhân, văn nhân và đồng thời trong tâm linh loài người xoá hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cái cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực nào!
(Hoài Thanh, Ý nghĩa văn chương)
c) Như vậy, chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền, mà bổng lộc các ngươi cũng đời đời hưởng thụ; chẳng những gia quyến của ta được êm ấm gối chăn, mà vợ con các ngươi cũng được bách niên giai lão; chẳng những tông miếu của ta sẽ được muôn đời tế lễ, mà tổ tông các ngươi cũng được thờ cúng quanh năm; chẳng những thân ta kiếp này đắc chí, mà đến các ngươi trăm năm về sau tiếng vẫn lưu truyền; chẳng những danh hiệu ta không bị mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu thơm.
(Trần Quốc Tuấn, Hịch tướng sĩ)
d) Tuy rét vẫn kéo dài, mùa xuân đã đến bên bờ sông Lương.
(Nguyễn Đình Thi)
e) Hai người giằng co nhau, du đẩy nhau, rồi ai nấy đều buông gậy ra, áp vào vật nhau […]. Kết cục, anh chàng “hầu cận ông lí” yếu hơn chị chàng con mọn, bị chị này túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm.
(Ngô Tất Tố, Tắt đèn)
Trả lời:
a) – Quan hệ giữa vế câu: nguyên nhân – kết quả.
+ Vế câu “cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi”: kết quả
+ Vế câu “chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn”: nguyên nhân
– Quan hệ giữa vế câu “chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn” với vế câu “Hôm nay tôi đi học”: giải thích.
Vế câu: “Hôm nay tôi đi học” giải thích cho vế câu “chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn”
b) – Quan hệ giữa hai vế câu: điều kiện – kết quả.
+ Vế câu “trong pho tàng lịch sử… lưu lại”: điều kiện
+ vế câu “cái cảnh tượng…” – kết quả.
c) Quan hệ giữa các vế câu: tăng tiến.
d) Quan hệ giữa các vế câu: tương phản.
Tuy – nhưng
e) Quan hệ nối tiếp: Giằng co nhau – ai nấy đều buông tay
– Quan hệ nguyên nhân – kết quả:
+ Nguyên nhân: anh chàng “hầu cận ông li” yếu hơn
+ Kết quả: bị chị này túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm.
Câu 2 – trang 124 SGK Ngữ Văn 8 Tập 1
Đọc đoạn trích (trang 124, 125 SGK Ngữ văn 8 tập 1) và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
(1) Biển luôn thay đổi tuỳ theo màu sắc mây trời. Trời xanh thẳm, biển cũng thẳm xanh, như dâng cao lên chắc nịch. Trời rải mây trắng nhạt, biển mơ màng dịu hơi sương. Trời âm u mây mưa, biển xám xịt, nặng nề . Trời ầm ầm dông gió, biển đục ngầu giận giữ.
(2). Vào mùa sương, ngày ở Hạ Long như ngắn lại. Buổi sớm, mặt trời lên ngang cột buồm, sương tan, trời mới quang. Buổi chiều, nắng vừa nhạt, sương đã buông nhanh xuống mặt biển.
a) Tìm câu ghép trong những đoạn trích trên
Trả lời:
Đoạn (1):
– Trời xanh thẳm, biển cũng xanh thẳm như dâng cao lên, chắc nịch.
– Trời rải mây trắng nhạt, biển mơ màng dịu hơi sương.
– Trời âm u mây mưa, biển xám xịt nặng nề.
– Trời ầm ầm dông gió, biển đục ngầu giận dữ
Đoạn (2)
– Buổi sớm, mặt trời lên ngang cột buồm, sương tan, trời mới quang.
– Buổi chiều, nắng vừa nhạt, sương đã buông nhanh xuống biển.
b) Xác định quan hệ ý nghĩa giữa các vế câu trong mỗi câu ghép
Trả lời:
Đoạn 1: Quan hệ ý nghĩa giữa các vế câu ghép: quan hệ nhân quả. Sự thay đổi của trời dẫn tới sự thay đổi của nước.
Đoạn 2: Quan hệ ý nghĩa giữa các vế câu: quan hệ đồng thời.
c) Có thể tách mỗi vế câu nói trên thành một câu đơn không? Vì sao?
Trả lời:
Không thể tách các vế câu trên thành câu đơn vì sẽ làm mất đi quan hệ ý nghĩa mà hai vế câu bổ sung cho nhau.
Câu 3 – trang 124 SGK Ngữ Văn 8 Tập 1
Trong đoạn trích dưới đây có hai câu ghép rất dài. Xét vé mật lập luận, có thể tách mỗi vế của những câu ghép ấy thành một câu đơn không ? Vì sao ? Xét về giá trị biểu hiện, những câu ghép dài như vậy có tác dụng như thế nào trong việc miêu tả lời lẽ của nhân vật (lão Hạc)?
Lão kể nhỏ nhẻ và dài dòng thật. Nhưng đại khái có thể rút vào hai việc. Việc thứ nhất: lão thì già, con đi vắng, vả lại cũng còn dại lắm, nếu không có người trông nom cho thì khó mà giữ được vườn đất để làm ăn ở làng này; tôi là người nhiều chữ nghĩa, nhiều lí luận, người ta kiêng nể, vậy lão muốn nhờ tôi cho lão gửi ba sào vườn của thằng con lão; lão viết văn tự nhượng cho tôi để không ai còn tơ tưởng dòm ngó đến; khi nào con lão về thì nó sẽ nhận vườn làm, nhưng văn tự cứ để tên tôi cũng được, để thế để tôi trông coi nó… Việc thứ hai: lão già yếu lắm rồi, không biết sống chết lúc nào, con không có nhà, lỡ chết không biết ai đứng ra lo cho được; để phiền cho hàng xóm thì chết không nhắm mắt; lão còn được hăm nhăm đồng bạc với năm đồng bạc vừa bán chó là ba mươi đồng bạc, muốn gửi tôi, để lỡ có chết thì tôi đem ra, nói với hàng xóm giúp, gọi là của lão có tí chút, còn bao nhiêu đành nhờ hàng xóm cả…
(Nam Cao, Lão Hạc)
Trả lời:
Xét về mặt lập luận, mỗi câu ghép trình bày Nguyên nhân vì sao Lão Hạc lại nhờ ông giáo. Vì vậy không nên tách mỗi vế của những câu ghép ấy thành một câu đơn vì sẽ không bảo đàm được tính mạch lạc của lập luận.
Xét về giá trị biểu hiện, tác giả cố ý viết câu dài để diễn tả đúng cái sự kể lể “dài dòng” của lão Hạc phù hợp với tính cách của nhân vật: lớn tuổi nên việc ăn nói không còn được dõng dạc, đúng với tâm trạng của lão Hạc khi túng quẫn với hoàn cảnh hiện tại của mình.
=> Thể hiện tính cẩn thận, chu đáo, lo trước nghĩ sau của lão Hạc.
Câu 4 – trang 124 SGK Ngữ Văn 8 Tập 1
Đọc đoạn trích (trang 125 SGK Ngữ văn 8 tập 1) và trả lời câu hỏi:
– Thôi, u van con, u lạy con, con có thương thầy, thương u, thì con đi ngay bây giờ cho u. Nếu con chưa đi, cụ Nghị chưa giao tiền cho, u chưa có tiền nộp sưu thì không khéo thầy con sẽ chết ở đình, chứ không sống được. Thôi, u van con, u lạy con, con có thương thầy, thương u, thì con đi ngay bây giờ cho u.
(Ngô Tất Tố, Tắt đèn)
a) Quan hệ ý nghĩa giữa các vế của câu ghép thứ hai là quan hệ gì? Có nên tách mỗi vế câu thành một câu đơn không? Vì sao?
b) Thử tách mỗi vế trong câu ghép thứ nhất và thứ ba thành một câu đơn. So sánh cách viết ấy với cách viết trong đoạn trích, qua mỗi cách viết , em hình dung nhân vật nói như thế nào?
Trả lời:
a) Quan hệ ý nghĩa giữa các vế cúa câu ghép thứ hai là quan hệ điều kiện – kết quả
+ Điều kiện: thương thầy, thương u
+ Kết quả: thì con đi ngay bây giờ cho u
– Không nên tách thành câu đơn. Vì: Ý hai vế này liên kết với nhau chặt chẽ, tách mỗi vế ý chưa trọn vẹn..
b) Thử tách mỗi vế trong các câu ghép thứ nhất và thứ ba thành một câu đơn:
– Thôi! U van con. U lạy con. Con có thương thầy, thương u con đi ngay bây giờ cho u.
=> Thế là một loạt câu ngắn xếp cạnh nhau khiến người đọc hình dung một lối nói nhát gừng hay uất nghẹn, không thể hiện được sự khẩn thiết, khắc khoải trong lời nói và hành động của nhân vật.
Tham khảo thêm các bài soạn Ngữ văn lớp 6, tại đây:
Viết bài văn trình bày ý kiến về một hiện tượng đời sống trang 58-60