Soạn Đây thôn Vĩ Dạ Trang 38-40 Ngữ văn 11 Tập 2

HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

(Soạn Đây thôn Vĩ Dạ)

Câu 1(Soạn Đây thôn Vĩ Dạ):  Phân tích nét đẹp của phong cảnh và tâm trạng của tác giả trong khổ thơ đầu.

Trả lời:

Tâm trạng tác giả trong khổ thơ đầu (qua hồi tưởng về Cảnh và người thôn Vĩ)

– Bao trùm khổ thơ là niềm thích thú, say sưa, lòng yêu mến, tán thưởng vẻ đẹp của cảnh và người thôn Vĩ. Có lẽ tấm thiếp của người thôn Vĩ là một tín hiệu tình cảm tác động mạnh tới vùng kỉ niệm đẹp trong tâm hồn Hàn Mặc Tử. Vì vậy mà hàng loạt hình ảnh, về thôn Vĩ hiện lên rất rõ và thực, tưởng như thi sĩ đang đứng trước cảnh sắc thôn Vĩ mà nhìn ngắm, nâng niu.

Câu thơ mở đầu “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” là câu hỏi mà thực ra là lời trách móc nhẹ nhàng và cũng là lời mời gọi tha thiết của cô gái thôn Vĩ với nhà thơ (hay đấy cũng là lời tự trách, tự hỏi mình, là ao ước thầm kín của người đi xa được về thôn Vĩ, của người đang mắc căn bệnh khiến mọi người xa lánh tìm về với cuộc đời). Thực ra câu hỏi vọng lên từ phương trời xa xôi ấy đã là duyên cớ để khơi dậy trong tâm hồn nhà thơ bao kỉ niệm sâu sắc, bao hình ảnh đẹp đẽ, đáng yêu về xứ Huế, trước hết là về Vĩ Dạ, nơi có người mà nhà thơ thương mến. Đẹp nhất trong những hồi tưởng ấy (nhà thơ đã từng ở Huế) có lẽ là cảnh thôn Vĩ Dạ trong ánh bình minh.

– “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên” như phác qua cái nhìn từ xa tới, chưa đến Vĩ Dạ nhưng đã thấy hàng cau thẳng tắp, cao vút, vượt lên trên những tán cây khác, những tàu lá cau lấp lánh ánh mặt trời buổi sớm mai. Đây là một quan sát rất tinh tế của nhà thơ: Cái đẹp của thôn Vĩ không chỉ do “nắng” hay do “hàng cau” mà là do “nắng hàng cau”, do sự hài hoà của ánh nắng vàng rực rỡ trên hàng cau tươi xanh. Câu thơ bảy chữ mà có tới hai chữ “nắng”, tưởng như Hàn Mặc Tử đã gợi đúng cái đặc trưng của nắng miền trung: Nắng nhiều và nắng rực rỡ ngay từ lúc bình minh. Dù sao cụm từ “nắng mới lên” vẫn gợi ra một vẻ đẹp trong trẻo, tinh khiết, có cảm giác ánh nắng ấy đã làm bừng sáng cả khoảng trời hồi tưởng của nhà thơ.

– Câu thơ “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” lại là cái nhìn thật gần của người như đang đi trong những khu vườn tươi đẹp của thôn Vĩ. Có thể coi cái thần thái của thôn Vĩ là vườn cây, vườn bao bọc quanh nhà, gắn với ngôi nhà thành một cấu trúc thẩm mỹ xinh xắn mà Xuân Diệu từng có cảm giác “giống như một bài thơ tứ tuyệt” (Đường về miền Trung). Cũng vì là cấu trúc vườn – nhà cho nên vườn được chăm sóc chu đáo, những khóm hoa, cây cảnh vốn đã xanh tươi lại được những bàn tay khéo léo chăm sóc nên càng thêm đẹp tươi hơn. Câu thơ tả cảnh đã đẹp, từ ngữ lại có hồn và sống động vô cùng. Từ “mướt” gợi sự tươi non, sạch sẽ, láng bóng của từng chiếc lá dưới ánh mặt trời. Trong khi đó, hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” gợi hình dung về những tán cây xanh mướt, mượt mà được ánh nắng mặt trời rực rỡ buổi sớm mai chiếu xuyên qua ánh lên màu xanh trong suốt như màu ngọc. Phải là một người có tình yêu tha thiết với thiên nhiên, với cuộc sống, có ân tình thật sâu sắc, đậm đà với thôn Vĩ mới lưu giữ được trong tâm trí những hình ảnh sống động và đẹp đẽ như thế.

– “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”: Một sự xuất hiện rất kín đáo, rất đúng với bản tính của con người đất Huế, bởi chỉ có thể thấy thấp thoáng sau những chiếc lá trúc là khuôn “mặt chữ điền”, khuôn mặt của người ngay thẳng, cương trực, phúc hậu theo quan niệm của người xưa. Có nhiều ý kiến xung quanh vấn đề ai là chủ thể trữ tình trong câu thơ này (cũng như ở câu thơ đầu vậy). Nếu ta hiểu câu thơ đầu là lời của người con gái Huế thì ở câu này hẳn nhân vật trữ tình có lẽ là chủ nhân của “vườn ai”. Thế nhưng nếu câu đầu là lời của tác giả (tự phân thân để tự vấn mình) thì cũng có thể hiểu đây là hình ảnh của người thi sĩ đang rất khổ đau ấy.

=> Bài thơ ra đời khi Hàn Mặc Tử đang phải chiến đấu với bệnh tật – một căn bệnh quái ác trong “tứ chứng nan y” mà lúc đó con người còn bó tay. Ở trong trại phong Quy Hoà, Hàn rất cô đơn. Thi sĩ luôn xem đó là một lãnh cung và tất nhiên luôn khát khao được sống với cái cuộc sống đầy hương sắc ngoài kia. Cuộc trở về bằng tâm tưởng lần này có thể xem là nằm trong cái mạch cảm xúc ấy. Và nếu như câu thơ đầu là lời tự vấn (Vì sao chưa về thăm thôn Vĩ? – vì thi sĩ đang mặc cảm về bệnh tật) thì câu thơ thứ tư có thể được hiểu là: thi sĩ trở về nhưng chỉ dám ngại ngùng núp sau tán trúc mà khao khát nhìn vào cái cuộc sống ngọt ngào, đầy hương sắc kia (khu vườn) vậy. Điều này phù hợp với sự chuyển biến tâm trạng của nhân vật trữ tình trong khổ thơ thứ hai và thứ ba.

=> Cảnh và người thôn Vĩ thật đẹp nhưng cũng chỉ là hoài niệm.

Câu 2(Soạn Đây thôn Vĩ Dạ): Hình ảnh “gió”, “mây”, “sông”, “trăng” trong khổ thơ thứ hai gợi cảm xúc gì?

Trả lời:

+ Trong khổ thơ thứ hai Hàm Mặc Tử đã miêu tả bằng những hình ảnh rất ấn tượng như gió, mây, sông và trăng…

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn hiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

– Trong hai câu thơ đầu tiên gợi nên sự êm đềm, nhẹ nhàng của Huế mộng mơ. Hình ảnh gió và mây trong tự nhiên thường đi liền với nhau, tuy nhiên ở đây lại có cảm giác chia lìa mỗi thứ một hướng. Sự chia lìa đã diễn ra ngay trong cả những thứ vốn không thể chia lìa được. Động từ “lay” gợi buồn, buồn đến hiu hắt vậy. Nó là nét buồn phụ hoạ với gió, mây, dòng nước, hay nỗi buồn nước – mây như đã xâm chiếm vào lòng hoa bắp.

– Hai câu thơ sau là hai chiều cảm xúc: Tâm hồn nhà thơ có buồn, có cô đơn nhưng vẫn chan chứa tình yêu với con người và thiên nhiên xứ Huế. Cảnh thực mà cứ như ảo, vì dòng sông không còn là dòng sông của sóng nước nữa mà là dòng sông ánh sáng, lấp lánh ánh trăng vàng. Cũng vì thế, con thuyền vốn có thể có thực trên sông đã trở thành một hình ảnh của mộng tưởng. Nó “đậu” trên “bến sông trăng” để “chở trăng” về một nơi nào đó trong mơ.

– Câu thơ có một cái gì đó rất chơi vơi gợi hình dung rất rõ về một sự thất vọng nhói đau. Sự thất vọng ấy, bi kịch ấy được gợi ra từ chữ “kịp” (“Có chở trăng” <> “về kịp tối nay?”). Câu hỏi tu từ cuối bài như thể hiện nỗi mong ngóng, hi vọng ai đó sẽ về cùng đó thể hiện nỗi đau khổ tuyện vọng của nhân vật. Ta không thể biết “tối nay” là một tối nào cụ thể. Nhưng qua giọng thơ khắc khoải và chữ “kịp” thì thi sĩ chắc sẽ hoàn toàn rơi vào tuyệt vọng, vĩnh viễn đau thương. Chữ “kịp” hé mở cho ta một mặc cảm: mặc cảm về một hiện tại ngắn ngủi, hé mở cho ta thấy chủ thể đang cố chạy đua với thời gian.

Câu 3(Soạn Đây thôn Vĩ Dạ): Ở khổ thơ thứ ba, nhà thơ bộc lộ tâm sự của mình như thế nào? Chút hoài nghi trong câu thơ: “Ai biết tình ai có đậm đà?” có biểu hiện niềm tha thiết với cuộc đời không? Vì sao?

Trả lời:

+ Ở khổ thơ thứ ba, nhà thơ bộc lộ tâm tư, tình cảm với người xứ Huế:

– Trước hết, điệp ngữ khách đường xa, câu thơ mở đầu khổ thơ nhấn mạnh thêm nỗi xót xa, những lời tâm sự với chính mình

– Trước lời mời của cô gái thôn Vĩ, có lẽ nhà thơ chỉ là người khách quá xa xôi, hơn thế

– Thiết tha hướng về thôn Vĩ cảm thấy xa vời, khó tiếp cận

– Trong câu thơ “Mơ khách đường xa, khách đường xa” nhìn ở góc độ nào ta cũng thấy sự đau khổ, câu thơ này có thể hiểu như chính nhà thơ là khách đường và và dù rất muốn nhưng không thể về thăm được.

– Hình ảnh khó nắm bắt, mờ ảo của cả con người và cảnh vật thể hiện qua từ: “xa”, “trắng quá”, “sương khói”, “mờ”, “ảnh”… tăng cảm giác khó nắm bắt

– Sống trong mơ mộng, hư ảo của sương khói Huế, màu áo dài cũng thấp thoáng, mờ ảo

+ Ta lại bắt gặp cuối đoạn thơ một câu hỏi tu từ nữa “Ai biết tình ai có đậm đà?” thể hiện sự hoài nghi của tác giả: nếu như tác giả một lòng hướng về xứ Huế thì không biết con người nơi đây có nhớ đến mình hay không? Dù hiểu theo nghĩa nào thì câu thơ cũng chỉ làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng trong một tâm hồn tha thiết yêu thương con người và cuộc đời.

=> Những câu thơ gợi lên tình cảm tha thiết, đậm đà của tác giả nhưng chứa đựng nỗi xót xa, cô đơn, trống vắng.

Câu 4: Có gì đáng chú ý trong tứ thơ và bút pháp của bài thơ?

Trả lời:

Điểm đáng chú ý trong tứ thơ và bút pháp của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là:

– Tứ thơ: Hàn Mặc Tử đã viết từ cảnh thật, cụ thể cho đến những hình ảnh mang tính tượng trưng, mượn cảnh tả tình.

– Tứ thơ là ý chính, ý lớn bao quát bài thơ, là điểm tựa cho sự vận động cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng toàn bài thơ.

– Tứ thơ bắt đầu với cảnh đẹp thôn Vĩ bên dòng sông Hương: gợi lên những liên tưởng thực và ảo:

+ Thể hiện nhiều nỗi niềm cảm xúc, suy tư về cảnh và người xứ Huế.

+ Trạng thái mặc cảm, uẩn khúc, nhưng cũng chưa tin yêu, hi vọng.

– Bút pháp của bài thơ: Bút pháp nghệ thuật của bài thơ được kết hợp một cách hài hòa, nhịp nhàng giữa cảnh thật và cảnh tượng trưng, giữa cái thực tế với cái lãng mạn, trữ tình.

– Cảnh đẹp xứ Huế đậm nét tả thực mà lại có tầm cao tượng trưng:

+ Sự mơ mộng làm tăng thêm sắc thái lãng mạn

+ Nét chân thực làm bật lên chất trữ tình.

LUYỆN TẬP

(Soạn Đây thôn Vĩ Dạ)

Câu 1: Những câu hỏi trong bài thơ hướng tới ai và có tác dụng gì trong việc biểu hiện tâm trạng của tác giả?

Trả lời:

+ Những câu hỏi trong bài thơ không hướng tới một đối tượng cụ thể nào. Những câu hỏi này có tác dụng bày tỏ thái độ, nỗi niềm, cảm xúc của tác giả.

  • Trong câu hỏi đầu tiên ‘Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” như một lời trách móc nhẹ nhàng của người con gái.
  • Trong câu hỏi thứ hai “Có chở trăng về kịp tối nay?” là một câu hỏi tu từ thể hiện niềm hi vọng, tình yêu thương thầm kín của tác giả.
  • Trong câu hỏi cuối bài “Ai biết tình ai có đậm đà?” câu hỏi này làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng trong một tâm hồn tha thiết yêu thương con người và cuộc đời.

Câu 2: Hoàn cảnh sáng tác và nội dung bài thơ gợi cho anh (chị) cảm giác gì?

Trả lời:

+ Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được sáng tác sau khi nhà thơ bị mắc bệnh phong hai năm và đang điều trị tại trại phong Quy Hòa. Theo như một số tài liệu nhà thơ lấy cảm hứng từ chuyện tình của nhà thơ và người trong mộng.  Hàn Mạc Tử trước khi bị bệnh có quen một cô gái tên là Hoàng Thị Kim Cúc, cả hai người đều có tình ý với nhau nhưng vốn là một con người nhút nhát nên Hàn Mạc Tử không nói ra. Đến khi Hàn Mạc Tử bị bệnh thì cô gái tên Hoàng Cúc ngày nào giờ đã lấy chồng nhưng biết tin nhà thơ bị bệnh cô đã gửi một tấm bưu thiếp cho ông.

+ Nội dung bài thơ thể hiện nỗi buồn, niềm khao khát của một con người tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, yêu con người. Bài thơ đẹp như thế, trên thực tế lại được tác giả sáng tác trong một hoàn cảnh thật tối tăm, tuyệt vọng (bệnh tật giày vò, nỗi ám ảnh về cái chết, về sự xa lánh của người đời). Điều đó khiến người ta thêm thương xót và cảm thông với số phận của tác giả, thêm cảm phục một con người đầy tài năng và nghị lực, con người đã dũng cảm vượt lên trên hoàn cảnh nghiệt ngã để sáng tác ra một bài thơ tài hoa về tình đời, tình người.

+ Điều đó khiến ta thêm thương xót và cảm thông với số phận của tác giả, thêm cảm phục một con người đầy tài năng và nghị lực, con người đã dũng cám vượt lên trên hoàn cảnh nghiệt ngã để sáng tác ra những vần thơ tài hoa về tình đời, tình người.

Câu 3: Đây là bài thơ nói về tình yêu hay tình quê? Vì sao bài thơ diễn tả tâm trạng riêng của nhà thơ lại tạo được sự cộng hưởng rộng rãi và lâu bền trong tâm hồn các thế hệ bạn đọc?

Trả lời:

Hai tình cảm này có trong từng khổ thơ chúng đan xen và mang mức độ khác nhau.

– Bài thơ này là bài thơ về tình yêu thể hiện tình yêu của tác giả và Hoàng Thị Kim Cúc, tình yêu nhẹ nhàng thầm kín của hai người. Tuy nhiên qua tình yêu cá nhân cũng có thể thấy hiện lên tình yêu quê hương đất nước.

– Ẩn trong lớp câu ngữ, bài thơ còn thể hiện tình cảm của Hàn Mặc Tử hướng về người thôn Vĩ về cảnh và người xứ Huế qua đó cho thấy được tình yêu thiết tha, đằm thắm của tác giả đối với quê hương đất nước. Nhờ những tình cảm hết sức chân thực, cùng với những hình ảnh giàu sức lay động, bài thơ đã đi vào lòng thế hệ nhiều bạn đọc.