Bài soạn Viếng lăng Bác gồm hai phần lớn, là Đọc – hiểu văn bản và luyện tập phân tích bài thơ.

I. ĐỌC – HIỂU VIẾNG LĂNG BÁC

1. Tác giả

– Viễn Phương (1928 – 2005), tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê ở tỉnh An Giang.

– Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ông hoạt động ở Nam Bộ và là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng Văn nghệ giải phóng miền Nam trong giai đoạn chống Mĩ cứu nước.

– Một số tác phẩm tiêu biểu của Viễn Phương: Chiến thắng hòa bình (trường ca, 1952), Anh hùng mìn gạt (truyện kí, 1968), Mắt sáng học trò (thơ, 1970), Như mây mùa xuân (1978), Quê hương địa đạo (truyện và kí, 1981), Sắc lụa Trữ La (1988)…

2. Tác phẩm

a) Hoàn cảnh sáng tác

– Bài thơ được Viễn Phương viết trong dịp ra thăm viếng Lăng Bác vừa được khánh thành, vào năm 1976 sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

– Viếng lăng Bác được in trong tập thơ Như mây mùa xuân (thơ, 1978).

b) Bố cục

Bài thơ gồm có 4 phần tương với 4 khổ thơ:

Phần 1: Khổ thơ thứ nhất: Cảm xúc của nhà thơ trước khung cảnh ngoài lăng Bác.

Phần 2: Khổ thơ thứ hai: Hình ảnh đoàn người vào lăng viếng Bác và cảm xúc của nhà thơ.

Phần 3: Khổ thơ thứ ba: Hình ảnh Bác Hồ và cảm xúc của nhà thơ.

Phần 4: Khổ thơ cuối: Cảm xúc và ước nguyện của nhà thơ khi ra về.

3. Trả lời câu hỏi trong SGK Ngữ văn 9, tập 2

Câu 1: Đọc nhiều lần bài thơ Viếng lăng Bác, tìm hiểu cảm xúc bao trùm của tác giả và trình tự biểu hiện trong bài.

Trả lời

* Cảm xúc bao trùm bài thơ: Tấm lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ cũng như người nói chung khi đến thăm lăng Bác.

* Trình tự cảm xúc thể hiện trong bài thơ:

Cảm xúc của nhà thơ được thể hiện theo trình tự của cuộc viếng lăng Bác:

– Cảm xúc của tác giả trước không gian, cảnh vật bên ngoài lăng

– Cảm xúc trước đoàn người vào lăng viếng Bác

– Cảm xúc khi vào lăng, nhìn thấu di hài Bác

– Những tình cảm, cảm xúc khi ra về. Đó là niềm mong ước thiết tha muốn mình mãi ở lại bên lăng Bác.

Câu 2: Phân tích hình ảnh hàng tre bên lăng Bác được miêu tả ở khổ thơ đầu. Tác giả đã làm nổi bật những nét nào của cây tre và điều đó mang ý nghĩa ẩn dụ như thế nào? Câu thơ cuối bài trở lại hình ảnh cây tre đã bổ sung thêm phương diện ý nghĩa gì nữa của hình ảnh cây tre Việt Nam?

Trả lời:

  • Phân tích hình ảnh hàng tre bên lăng Bác được miêu tả ở khổ thơ đầu

– Ngay ở câu thơ thứ hai, hình ảnh hàng tre đã xuất hiện. Hàng tre xanh bát ngát mang đến cho nhà thơ cảm giác như đã lâu không thấy nhưng rất thân thuộc, khiến tác giả phải phải thốt lên “Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam”.

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng

Khổ thơ đầu bài thơ ghi lại những cảm xúc của nhà thơ Viễn Phương khi đứng trước khung cảnh bên ngoài lăng. “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” là câu thông báo giản dị, chứa đựng bao tình cảm thân thương. Cách xưng “con” gọi “Bác” thể hiện tình cảm gần gũi và lòng thành kính. Nhà thơ nói ra “thăm” chứ không nói “viếng”, như người con về thăm cha, thăm nơi Bác nghỉ ngơi. Dù nỗi đau nhà thơ đang cố giấu đi nhưng không thể được giọng ngậm ngùi.

Hình ảnh đầu tiên và ấn tượng về cảnh quan bên lăng Bác là hình ảnh hàng tre. Từ miền Nam ra thăm lăng Bác, nhà thơ dường như nóng lòng, hồi hộp nên đến lăng từ rất sớm, từ “trong sương” nhà thơ bắt gặp hình ảnh quen thuộc, thân thương của làng quê Việt Nam: cây tre. Lăng Bác như được hàng tre che mát. Hàng tre bát ngát chạy dài quanh năm, ở đó nhà thơ như thấy màu xanh xanh của đất nước. Và hàng tre ấy như đại diện cho tính cách kiên cường, ý chí bền bĩ của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam: “Bão táo mưa sa đứng thẳng hàng”. Trong cái nhìn xúc động của nhà thơ Viễn Phương, hàng tre hiện lên vừa thực, vừa ảo trong tâm tưởng nhà thơ. Hàng tre cũng là hình ảnh màu đất nước, cùng tụ về để giữ cho Người giấc ngủ bình yên. Hàng tre như những người chiến sĩ đang canh gác cho giấc ngủ của Bác. Hình ảnh này cũng biểu trưng cho tinh thần kiên cường, bất khuất, trung thành bên Bác của dân tộc.

Có thể nói, hình ảnh hàng tre ở đầu bài thơ là khúc dạo đầu xúc động, bồi hồi của nhà thơ khi đến bên lăng nơi Người yên nghỉ.

  • Tác giả đã làm nổi bật những nét nào của cây tre và điều đó mang ý nghĩa ẩn dụ như thế nào?

– Nét nổi bật của hàng tre mà tác giả làm nổi bật: “Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”. Đó là dù mưa giông bão tố, tre vẫn đứng sừng sững giữa trời, vươn thẳng lên trời xanh. Ý nghĩa ẩn dụ ở đây là tác giả đã dùng hình ảnh hàng trẻ để ngụ ý cho sức mạnh bền bỉ, ý chí bất khuất kiên cường của dân tộc, con người Việt Nam.

  • Câu thơ cuối bài trở lại hình ảnh cây tre đã bổ sung thêm phương diện ý nghĩa gì nữa của hình ảnh cây tre Việt Nam?

– Ở câu thơ cuối bài, hình ảnh hàng tre trở lại thể hiện sự lưu luyến, ước nguyện lòng mình mãi được ở bên Bác của nhà thơ. Và hình ảnh cây tre ở cuối bài thể hiện cho ý nghĩa về cây tre Việt Nam trung hiếu – thêm một đức tính của nhân dân Việt Nam.

Hình ảnh cây tre xuất hiện ở đầu và cuối bài thể hiện kết cấu đầu cuối tương ứng, đã giúp làm đậm nét hình ảnh hàng tre cũng như cảm xúc của nhà thơ khi viếng lăng Bác.

Câu 3: Tình cảm của nhà thơ và của mọi người đối với Bác đã được thể hiện như thế nào trong các khổ thơ 2, 3, 4? Chú ý phân tích những hình ảnh ẩn dụ đặc sắc trong các khổ thơ này.

Trả lời:

Tình cảm của nhà thơ và của mọi thể hiện trong khổ thơ 2, 3, 4 với các hình ảnh ẩn dụ đặc sắc;

– Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

– Hình ảnh mặt trời ở câu thơ thứ hai (khổ 2) ẩn dụ cho sự vĩ đại Bác Hồ. Với hình ảnh này, nhà thơ vừa thể hiện được sự thành kính của nhà thơ và của cả dân tộc Việt Nam đối với Bác.

– Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân

– Hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ” là một hình ảnh tác giả quan sát thấy, nhưng “kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” là một ẩn dụ sáng tạo và đẹp đẽ. Hình ảnh này thể hiện tình cảm sâu sắc và thiêng liêng của nhân dân dành cho Bác.

– Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền.

– Hình ảnh mặt trời rực đỏ trong lăng ở đoạn thơ trước được thay bằng “vầng trăng sáng dịu hiền”. Có thể thấy, Bác không chỉ là người dẫn đường, là ngọn đuốc soi sáng cho con đường cách mạng dân tộc (ý nghĩa biểu tượng của “mặt trời”; mà Bác còn là người cha già dịu hiền, luôn dịu dàng chăm lo cho đời sống nhân.

– Và đến hai câu thơ sau, mạch cảm xúc ấy đã đi đến bộc lộ niềm đau xót “nhói” trong tim trước sự thật Bác ra đi:

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim!

Những câu thơ trên thật chân thành và mãnh liệt. Dù biết rằng Bác vẫn ở đó, trong lòng dân tộc Việt Nam, vẫn hiện diện mãi mãi như bầu trời xanh, nhưng không tránh khỏi đau nhói trong lòng.

– Còn ở khổ thơ thứ 4 cũng là khổ thơ cuối, nhà thơ thể hiện ước nguyện được ở mãi bên Bác. Viễn Phương muốn muốn làm con chim cất cao tiếng hót, muốn làm đóa hoa tỏa hương và muốn làm cây tre trung hiếu để được bên Bác mãi mãi.

Câu 4: Nhận xét về sự thống nhất giữa nội dung tình cảm, cảm xúc và các yếu tố nghệ thuật (thể thơ, nhịp điệu, ngôn ngữ, hình ảnh) của bài thơ.

Trả lời:

Để có được một bài thơ xúc động, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc như Viếng lăng Bác; ta thấy sự thống nhất chặt chẽ giữa nội dung và các yếu tốt nghệ thuật cảu bài thơ:

– Giọng điệu bài thơ trang nghiêm, đau xót nhưng cũng đầy tự hào; thể hiện được đúng cảm xúc của tác giả. Nhịp điệu thơ chậm, lắng đọng, còn khổ cuối thì nhanh thể hiện được sự lưu luyến muốn được bên Bác của nhà thơ.

– Bài thơ được viết theo thể 8 chữ, nhưng có thêm dòng 7 chữ hoặc dòng 9 chữ. Đặc biệt các hình ảnh ẩn dụ sáng tạo, vừa chân thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng cùng với ngôn ngữ bình đều góp phần thể hiện sâu sắc nhất tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ khi viếng lăng Bác.

II. LUYỆN TẬP

1. Học thuộc lòng bài thơ Viếng lăng Bác

2. Viết một đoạn văn bình khổ 2 hoặc khổ 3 của bài thơ

vieng-lang-bac1

Phân tích khổ 3

Ở khổ thơ thứ ba của bài thơ “Viếng lăng Bác”, nhà thơ Viễn Phương bộc lộ niềm xót thương trước sự ra đi của Bác:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim!”

Hai câu thơ đầu của khổ thơ gợi sự yên tĩnh, trang nghiêm nhưng cảm giác thật trong lành và đẹp đẽ ở Bác. Bác đã ra đi, Bác nằm đó, nhưng nha thơ thấy Bác chỉ như đang ngủ trong giấc ngủ yên bình giữa thiên nhiên đẹp đẽ. Bác chỉ ngủ đó thôi, Bác vẫn ở cùng ta như nhà thơ Hải Như từng viết: Suốt cuộc đời Bác có ngủ ngon đâu/ Nay Bác ngủ chúng con canh giấc ngủ.

Vầng trăng dịu hiền tỏa ra ảnh sáng hiền hòa, ánh sáng của tình thương mến, như thể vầng trăng dịu hiền như vậy bởi để ru Bác ngủ; để Bác được ngủ yên bình trong tình yêu thương. Hình ảnh vầng trăng dịu hiện cũng như một ẩn dụ cho tâm hồn cao đẹp, sáng trong của bác Hồ cùng những vần thơ tràn ngập ánh trăng Người từng viết.

Viếng lăng Bác, ra thăm Bác, nhìn thấy Bác ngủ an lành thì thấy yêu thương, nhưng rồi một cảm xúc khác lại trào lên, đó là nỗi đau xót không thể kìm nén trước sự ra đi của Bác:

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim!

Trời xanh, mặt trời hay vầng trăng đều là những hình ảnh tự nhiên, vĩ đại của vũ trụ vĩnh hằng. Chúng xuất hiện trong bài thơ là sự ẩn dụ cho sự cao cả, vĩ đại, trường tồn ở Bác. Dù Bác ra đi là thật, nhưng Bác vẫn còn mãi với non sông đất nước, vẫn mãi trong lòng nhân dân muôn đời. Bác ra đi nhưng là hóa thân vào đất nước, vào thiên nhiên, vào dân tộc. Dẫu vậy, dẫu vững một niềm tin rằng Bác luôn diện diện, nhưng trái tim vẫn đau xót muôn phần khi Bác ra đi. Nhà thơ đã trực tiếp bộc lộ nỗi đau vô hạn, không thể nà khuây khỏa: “Mà sao nghe nhói ở trong tim”. Đó không chỉ là tình cảm của một người dân đối với lãnh tụ, quan trọng hơn đó chính là tình cảm của đứa con về muộn bên di hài người cha.

Có thể nói, khổ thứ ba đã bộc lộc trực tiếp nhất cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước Bác. Cùng với những hình ảnh ẩn dụ, khổ thơ này mang cảm xúc của người đọc lên đến cao trào, tim nhói đau như chính nhà thơ vậy.