Phú sông Bạch Đằng được các nhà phê bình đánh giá là tác phẩm tiêu biểu của văn học yêu nước thời Lý – Trần. Đây cũng là tác phẩm đã đạt tới đỉnh cao nghệ thuật của thể loại phú trung đại. Tác phẩm có nội dung kể về chuyến du ngoạn của một vị khách tới sông Bạch Đằng. Phân tích nhân vật khách trong Phú sông Bạch Đằng, ta sẽ hiểu hơn vị khách ấy có tâm tư, suy nghĩ như thế nào.
Bạch Đằng giang phú hay còn gọi là Phú sông Bạch Đằng. Đây là tác phẩm nổi tiếng của Trương Hán Siêu. Ông quê ở Ninh Bình. Ông là nhà văn hóa kiệt xuất trong thời trung cổ và là nhà chính trị đại tài dưới thời nhà Trần. Trương Hán Siêu vốn là môn khách của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Xuyên suốt 4 đời vua Trần, Trương Hán Siêu luôn được giao phó nắm giữa các chức vụ quan trọng. Trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông 2 và 3, ông cũng đã đóng góp công lao to lớn. Ông cũng có nhiều đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần 2 và lần 3. Trong sự nghiệp văn chương, ông hiện để lại 17 bài thơ và hai tác phẩm văn xuôi. Trong đó có kiệt tác, Bạch Đằng giang phú.
Bài mẫu phân tích nhân vật khách trong Phú sông Bạch Đằng
Khi phân tích nhân vật khách trong Phú sông Bạch Đằng, người đọc có thể thấy, ngay từ phần mở đầu, chân dung vị khách hiện ra là một người thích xê dịch, có thói ngao du thiên hạ:
“Khách có kẻ:
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ,
Tam Ngô, Bách Việt.
Nơi có người đi,
Đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Bèn giữa dòng chừ buông chèo,
Học Tử Trường chừ thú tiêu dao”.
Nhưng không giống kiểu phượt thủ ngày nay mê cảm giác mạnh, chinh phục các đỉnh cao, rừng thiêng, chốn không người. Nhân vật “khách” ở đây lại thích
“Giương buồm giong gió chơi vơi
Lướt bể chơi trăng mải miết”.
Vị khách ấy rất thong thả, đi du ngoạn với tâm thế ung dung tự tại, nhẹ tựa lông hồng. Một mình một thuyền, vừa chèo vừa nhìn ngắm mây trời, không vội vàng, không ồn ả, không nhanh chóng để đi tới điểm khám phá mà chậm rãi, thong dong cảm nhận cảnh quan thiên nhiên. Yêu thích việc được đi đến nhiều nơi để trải nghiệm, khám phá nên vị khách ấy đầu tiên đã tự chu du tới những địa danh nổi tiếng có trong điển cố của Trung Hoa như Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt. Nhưng ở những nơi này, ông chỉ chu du qua sách vở và thông qua trí tưởng tượng của mình. Điều đó cho thấy, trong tâm trí của vị khách luôn mong muốn có thể ngao du đến những nơi xa hơn ngoài nước Việt.
Như vậy qua những cuộc du ngoạn trong trí tưởng tượng, ta có thể thấy nhân vật khách là người rất ham đọc sách, lại có “tráng chí bốn phương”. Con người ấy cũng là kẻ có tâm hồn khoáng đạt, với tâm thế chủ động thích ngao du để mở rộng tầm mắt. Nhân vật ấy xê dịch không phải để khoe cuộc sống sang chảnh như giới trẻ ngày này mà là thưởng thức cảnh đẹp rồi nghiên cứu cảnh trí non sông, để bồi bổ kiến thức, điều mà vị khách đã học được từ “Tử Trường chừ thú tiêu dao”. Qua đây, ta cũng có thể nhìn thấy hình ảnh Trương Hán Siêu trong vị khách ấy.
Thong dong một mình một thuyền lướt sóng, chợt vị khách đến sông Bạch Đằng:
“Qua cửa Đại Than,
Ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng,
Thuyền bơi một chiều.”
Nhờ phân tích nhân vật khách trong Phú sông Bạch Đằng, ta một lần nữa được thấy nét đẹp của dòng sông lịch sử. “Bát ngát sóng kình muôn dặm
Thướt tha đuôi trĩ một màu
Nước trời một sắc
Phong cảnh ba thu
Bờ lau san sát
Bến lách đìu hiu”.
Dòng sông ghi dấu một thời vàng son oanh liệt ấy hiện ra trước mắt nhân vật khách với hai đặc điểm nổi bật. Đầu tiên đó là sự thơ mộng nhưng rất đỗi hùng vĩ. “Bát ngát sóng kình muôn dặm”. Trong tâm tầm mắt của vị khách hay chính là tác giả, sóng của Bạch Đằng giang cứ liên tiếp nối đuôi nhau đến vô tận. Tính từ “bát ngát” ở đây càng cho thấy rõ sự rộng lớn của dòng sông. Có lẽ trước cảnh đẹp thực tiễn của nước non, trong lòng vị khách đã dâng trào cảm xúc.
Bởi thế, ông mới thấy “Thướt tha đuôi trĩ một màu”. Đó là cảnh tượng về những chiếc thuyền đang nối đuôi nhau qua lại trên sông. Hình ảnh đó hiện ra thật duyên dáng, yêu kiều, yểu điệu. Nó khơi gợi vẻ thơ mộng của dòng Bach Đằng vốn hùng vĩ, mênh mông. Có thích thú cảnh sắc Bạch Đằng giang, ông mới thấy nước và mây có màu như nhau, thật khó phân biệt. Với nhân vật khách, đi là để cảm nhận, là để nâng ao nhãn quan nên ông quan sát không bỏ sót cảnh trí nào của sông Bạch Đằng. Bên cạnh vẻ hùng vĩ, mộng mơ, vị khách ấy còn nhận ra cái sự hiu quạnh, lạnh lẽo của hai bờ sông. Đó là bờ lau đã mọc lên san sát, các bến đỗ vắng bóng người vô cùng cùng đìu hiu. Hơn thế nữa, dưới đáy sông còn thấy hình ảnh giáo gãy, gò đầy xương khô…
Loạt hình ảnh đó xuất hiện tạo nên khung cảnh thiên nhiên thật thê lương, buồn thảm. Nó cũng nói lên tâm trạng đầy hoài niệm của vị khách và cũng chính là tác giả Trương Hán Siêu
“Sông chìm giáo gãy
Gò đầy xương khô
Buồn vì cảnh thảm
Đứng lặng giờ lâu
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”.
Cảm xúc của vị khách ấy trước Bạch Đằng giang lúc này vừa là nỗi nhớ nhung, hoài niệm là niềm tự hào về những chiến công oanh liệt trong dân tộc. vừa là nỗi buồn thương, tiếc nuối trước chiến xưa. Bởi như ta đã biết, sông Bạch Đằng là dòng sông đã cùng quan quân nhà Trần 3 lần đánh tan quân Nguyên Mông, cùng vua Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán và cùng vua Lê Đại Hành hạ gục quân Tống. Một thời vàng son là thế, nhưng giờ đây thật hoang vu, đìu hiu. Các tướng tá, anh hùng giờ không còn, mà chỉ còn lại những dấu vết nhưng cũng sắp sửa phai mờ theo thời gian.
“Đến chơi sông chừ ủ mặt
Nhớ người xưa chừ lệ chan”.
Khi phân tích nhân vật khách trong Phú sông Bạch Đằng tới phần này, người đọc càng thấy rõ, vị khách ấy chính là hiện thân của tác giả. Tâm trạng của vị khách ấy trước dòng sông Bạch Đằng cũng chính là tâm trạng của một chí sĩ yêu nước. Chi sĩ ấy đang mang trong mình những nỗi buồn, sự lo lắng cho vận mệnh nước nhà vào những năm cuối thời Trần. Khi nhà Trần đang đường suy vong, rường cột lung lay, lòng dân bất ổn. Ông đau đáu nỗi lo cho dân, thương cho nước.
Bên cạnh tâm thế du ngoạn, thảnh thơi thu vào tầm mắt những cảnh sắc hùng vĩ thơ mộng của nước non Đại Việt, vị khách ấy vãn ấp ủ trong lòng biết bao hoài niệm. Không bỗng nhiên mà tác giả chọn Bạch Đằng giang để thỏa trí ngao du. Mà tới đây, vị khách ấy mới có thể giãi bày tâm sự. mới có thế tìm lại một thời oanh liệ với những trang sử hào hùng, thế người như hùm như beo. Từ đây, mạch cảm xúc của vị khác được phát triển, làm tiền đề để khơi nguồn về quá khứ oai hùng của Bạch Đằng giang.
Bài phú của Trương Hán Siêu không đơn thuần là một áng thơ văn mà còn là cuộc thảo luận chính trị giữa nhân vật khách và các bô lão. Phân tích nhân vật khách trong Phú sông Bạch Đằng ở phần cuối, người đọc đặc biệt nhớ đến câu:
“Những người bất nghĩa tiêu vong
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh”.
Điều này dường như là chân lí muôn thuở. Hơn nữa, khách còn mượn ý trong câu thơ Đỗ Phủ “Tịnh tẩy giáp binh trường bất dục” (rửa sạch vũ khí mãi mãi không dùng đến), thể hiện khát vọng cuộc sống độc lập, hòa bình.
“Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh
Giặc tan muôn thuở thanh bình
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao”.
Điều này cũng chính là mục đích cao cả của các cuộc kháng chiến của quân ta. Không phải chiến đấu vì tham lam, mà để bảo vệ sự thanh bình của đất nước. Nhân vật khách ca ngợi chiến thắng của dân ta không vì lực lượng hùng mạnh, thế đất hiểm trở mà còn là nhờ nhân đức con người. Có thể thấy, nhân vật khách hiện lên với là mọt chí sĩ yêu chuộng hòa bình, không màng danh lợi.
Bạch Đằng giang phú là áng văn thiên anh hùng cổ. Với thể loại phú, kết hợp với các lớp ngôn từ hào sảng, lối đối đáp nhuần nhuyễn, nhân vật khách đã hiện lên là một vị khách vô cùng yêu quê hương đất nước. Phân tích nhân vật khách trong Phú sông Bạch Đằng không thể nói tới niềm đam mê xê dịch để học hỏi, để khám phá, mở rộng tầm mắt của bản thân. Bên cạnh đó, những câu thơ cuối cùng của bài phú, còn khắc họa sâu đậm tầm nhìn xa trông rộng và tấm lòng đầy nhân văn của nhân vật khách trữ tình.
>> Xem thêm: Phân tích Tây tiến khổ 3 chi tiết và hay nhất