Văn mẫu
Mở bài
Tố Hữu là nhà thơ cách mạng, thơ ông trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc. Vì vậy, khi đọc thơ ông chúng ta luôn cảm nhận được chất trữ tình và cách mạng hòa quyện vào nhau. Trong những tác phẩm viết về cách mạng, con người cách mạng không thể không kể đến bài thơ Việt Bắc. Việt Bắc là căn cứ đầu não chính trị, 10 năm ròng rã bộ đội ta nằm gai, nếm mật với biết bao kỉ niệm. Chặng đường kháng chiến chống Pháp cuối cùng cũng kết thúc bằng thắng lợi vẻ vang tháng 10/1945. Sau khi kết thúc kháng chiến, trung ương đảng và chính phủ từ chiến khu Việt Bắc dời về thủ đô Hà Nội. Trong buổi chia tay lưu luyến với đồng bào Việt Bắc, nhà thơ đã sáng tác bài thơ Việt Bắc như một lời cảm ơn, một lời tri ân đến những con người nghĩa tình, góp phần không nhỏ vào thắng lợi của cuộc kháng chiến vĩ đại. Bài thơ cũng là khúc hát giao duyên, tình cảm của người về xuôi và người ở lại. Việt Bắc chính là một trong những tác phẩm thơ ca đỉnh cao của Tố Hữu
Thân bài
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Phân tích bài thơ viêt bắc – Vậy là mười năm lăm ở Việt Bắc đã kết thúc. Thời gian không quá dài cũng không ngắn nhưng cũng đủ làm cho người ta nghĩa nặng tình sâu, luyến lưu khi sắp phải rời xa. Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết “ Khi ta ở chỉ là nơi ta ở, khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Bởi vậy, Việt Bắc đã trở thành tâm hồn, là quê hương thứ hai của những chiến sĩ cách mạng. Tình cảm mặn nồng không nỡ rời xa.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Câu hỏi tu từ cũng như chính câu trả lời. Tác giả sử dụng ngôi xưng “mình” ở đây chính là những chiến sĩ cách mạng, tự hỏi lòng khi về dưới xuôi còn nhớ quê hương Việt Bắc không. Câu hỏi cũng chính là câu trả lời, khi trở về xuôi làm sao quên được mảnh đất nghĩa tình đã cưu mang cán bộ ta trong những năm gian khó, nếm mật nằm gai. Câu thơ chính là lời nhắc nhở, nhắn nhủ những người về xuôi, xin đừng quên mảnh đất tình người.
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Hình ảnh áo chàm là hình ảnh của bà con Việt Bắc trong buổi chia ly, cái cầm tay mới lưu luyến làm sao. Cầm tay nhau mà không nỡ rời xa, cái nắm tay ấm áp nghĩa tình. Vẫn là tình cảm nồng hậu ấy, các chiến sĩ khi đến bà con dang tay cưu mang, khi các chiến sĩ về xuôi bà con không nỡ rời xa. Câu thơ bồi hồi rung động trái tim.
– Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Những câu thơ tiếp theo chính là lời nhắn nhủ của bà con Việt Bắc cũng là những kỉ niệm đã trải qua cùng nhau của dân quân trên chiến khu Việt Bắc. Đó là những năm tháng chiến đấu vất vả, ngược xuôi, trèo đèo lội suối, mây mù giăng lối. Đó là chia ngọt sẻ bùi, miếng cơm chấm muối. Lời nhắc nhở cũng như lời nhắn nhủ, bao gian khó cùng bà con, cùng núi rừng trải qua, xin hãy nhớ đừng quên.
Trong lời nhắn nhủ ấy vẫn không quên nhiệm vụ, vẫn biết trong gian khó nhưng không thể quên mối thù nặng vai, không thể quên những chiến công hào hùng ở Tân Trào, Hồng Thái… Toàn bộ câu thơ là cả một trời kí ức tràn về.
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…
Tác giả đã sử dụng đại từ ta – minh thể hiện mối quan hệ gắn bó ruột thịt, thấu hiểu được sự đặc biệt giữa kẻ ở người đi. Nếu hai mươi câu đầu là lời tâm sự của người ở lại, thì trong khổ thơ tiếp theo là lời tâm sự của người ra đi. Tác giả khẳng định, tình cảm người ra đi cũng vô cùng khắc khoải, nuối tiếc, nhớ nhung , nặng nghĩa tình không kém gì so với đồng bào Việt Bắc. Tác giả sử dụng lối so sánh “bao nhiêu – bấy nhiêu” cho thấy tình cảm đong đầy, không hề kém giữa kẻ ở, người đi.
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Tiếp theo là nỗi nhớ của tác giả dành cho thiên nhiên, con người việt bắc. Tác giả ví nỗi nhớ này như nỗi nhớ người yêu da diết khôn nguôi. Và nhớ về hình ảnh thân thương mỗi ngày, đó là trăng là núi, là bản khói, là sương, là bếp lửa… Tất cả vẽ lên một bức tranh về Việt Bắc, đó là bức tranh về cuộc sống hàng ngày nơi bản mường này. Nỗi nhớ len lỏi trong từng khung cảnh,t hiên nhiên, sâu sắc nghĩa tình.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Nỗi nhớ tiếp theo là nhớ đến những tháng năm gian khó vất vả, là thiếu thốn vật chất nhưng nghĩa tình dạt dào, bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng. Điều này khẳng định, khi gian khó, khi cực khổ quân và dân vẫn luôn có nhau, cùng đồng hành và hỗ trợ nhau hết mình để tạo nên chiến thắng oai hùng, vang danh lịch sử.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…
Phân tích bài thơ viêt bắc – Hình ảnh người mẹ hiện lên quá đỗi gần gũi thân thiết, bình dị. Những người mẹ, bầm hay mế là những tình cảm sâu nặng luôn cưu mang các chiến sĩ, mang lại cảm giác thân tình khó lìa xa. Nỗi nhớ về mẹ, về đồng đội, đồng chí, về lớp học i tờ, về những tháng ngày cơ quan hiện lên trong lúc chia tay, cho thấy họ vẫn bên nhau, đồng hành cùng nhau trong cuộc kháng chiến.
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Nỗi nhớ được vẽ lên qua bức tranh tứ bình tuyệt đẹp của Việt Bắc. Đó là mùa đông hoa chuối đỏ tươi thể hiện màu sắc ấm áp, hình ảnh lao động khỏe khoắn khi người lao động dắt dao và chặt từng buồng chuối đỏ. Đó là mùa xuân hoa nở trắng rừng với hình ảnh người đan nón chuốt từng sợi giang gợi nhớ tới màu của sự tinh khiết và nên thơ. Đó là mùa hạ rừng phách đổ vàng rực rỡ và cô em gái hái măng. Đó là mùa thu ánh trăng vằng vặc, tiếng hát ân tình thủy chung vẽ lên một bức tranh êm dịu, hiền hòa.
Tác giả thật tài tình khi vẽ lên bức tranh tứ bình tuyệt đẹp, sự hòa quyện kết hợp giữ màu sắc, âm thanh, con người, cảnh vật.
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng.
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà…
Tác giả đang tái hiện lại những tháng năm gian khó, những vất vả của kháng chiến, đó là thời khắc sinh tử, giặc đến giặc lùng, là sự đồng lòng trên dưới, quân dân, rừng núi như một.
Tác giả sử dụng biện pháp nhận hóa Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù cho thấy lực lượng kháng chiến đồng lòng như một. Để rồi ghi lên những chiến công lẫy lừng trên các mảnh đất anh hùng như Phù thông, Đèo Giang.
Trong thơ của Tố Hữu, thiên nhiên không hề vô tri vô giác, mà nó đang thực sự chiến đấu cùng quân và dân ta.
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Phân tích bài thơ viêt bắc – Các động từ mạnh như rầm rập, điệp điệp, trùng trùng… cho thấy một khí thế hào hùng, oanh liệt, mạnh mẽ sẵn sàng bước vào trận chiến. Nó mang âm hưởng của hào khí Đông A, sức mạnh vô biên, sự đoàn kết chặt chẽ của quân và dân. Tất cả chỉ vì một mục đích chung, một lí tưởng vĩ đại để tạo nên một tình thần thép kẻ thủ không thể quật ngã.
Tác giả ẩn dụng Nghìn đêm thăm thẳm chính là cuộc sống khốn khổ ngàn năm dân ta phải chịu, giờ đây đã được Đèn pha bật sáng cho thấy ánh sáng cách mạng đã soi sáng lí tưởng, mở ra một kỉ nguyên mới, một thế giới mới, một hi vọng mới cho quân và dân ta.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Cuối cùng, thời khắc quan trọng cũng tới, đó là chiến thắng, kháng chiến đã thành công, mười năm lăm đã có kết quả. Tin vui trăm miền. Cả khổ thơ cuối là niềm tự hào và sự tin tưởng nhắn gửi Việt Bắc.
Ngọn cờ đỏ sao vàng lại rực rỡ tung bay. Tất cả những hình ảnh quen thuộc hiện lên đẹp đẽ, như soi bước chỉ đường cho một tương lại tươi đẹp, đó cũng chính là điều mà tác giả gửi gắm trong từng câu thơ.
Lòng ta ơn Đảng đời đời
Ngược xuôi, đôi mặt một lời song song.
Ngàn năm xưa, nước non Hồng
Còn đây, ơn Đảng nối dòng dài lâu
Ngàn năm non nước mai sau
Đời đời ơn Đảng càng sâu càng nồng.
Cầm tay nhau hát vui chung
Hôm sau mình nhé, hát cùng Thủ đô.
Kết thúc bài thơ là lòng biêt ơn đến Đảng đời đời. Ngàn năm trước cuộc đời tăm tối, giờ đã bước sang một trang mới, ngàn năm sau sống hạnh phúc đời đời. Và trong lời cảm ơn Đảng cũng là lời cảm ơn Việt Bắc, chính quê hương thứ 2 này đã làm lên chiến thắng kì tích, đã giúp cho quân và dân ta chiến thắng kẻ thù.
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Câu hỏi tu từ chính là câu trả lời. Về thành thị xa xôi lòng vẫn nhớ về bản làng Việt Bắc. Đó là quê hương thứ hai không thể nào quên.
Kết bài
Hội ngộ rồi chia ly, đó là điều không thể tránh khỏi. Bữa tiệc nào rồi cũng đến lúc tàn, Mười năm lăm kêt thúc cũng là lúc quân và dân ta phải về thủ đô. Nhưng có lẽ, sẽ không thể nào quên Việt Bắc, mảnh đất nghĩa tình với bao nhiêu kỉ niệm, chia ngọt sẻ bùi. Bài thơ cũng chính là tấm lòng của Tố Hữu dành cho đồng bào Việt bắc, hay cũng chính là tấm lòng của những người chiến sĩ cách mạng về xuôi dành cho đồng bào Việt Bắc.
>> Xem thêm: Phân tích bài thơ việt bắc khổ 5 của nhà thơ Tố Hữu cực hay